Ở Việt Nam, danh
xưng đã trở thành một vấn nạn. Vấn nạn cấp quốc gia. Hầu như bất cứ ai cũng cố
gắng làm tất cả có thể để có một danh xưng, kiểu như [mượn lời của cụ Nguyễn
Công Trứ] “phải có danh gì với núi sông”. Người có quyền thế thì dùng chức danh
trước tên họ. Người có bằng đại học thì dùng bằng cấp trước tên. Người có chức
danh khoa học cũng ham dùng tên “học hàm” trước tên. Có nhiều trường hợp, người
chức danh và danh xưng còn dài hơn cái tên của đương sự! Chưa có một đất nước
nào mà quái đản như ở Việt Nam, nơi mà người ta viết những danh xưng kiểu như
“TS BS” trước tên mình! Những danh xưng ngộ nghĩnh như thế khi dịch sang tiếng
Anh trở thành một sự xấu hổ mang tầm quốc gia.
Tôi thừa hiểu ở Việt
Nam, danh xưng đóng vai trò quan trọng, có khi rất quan trọng. Có lần về làm việc
ở một tỉnh thuộc vùng miền Tây, sau bài nói chuyện tôi được một vị cao tuổi ân
cần trao cho một danh thiếp với dòng chữ tiếng Anh: “Senior Doctor Tran V. …”.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy một danh xưng như thế trong đời. Sau này có dịp
tìm hiểu từ bạn bè tôi mới biết ông là một cựu quan chức cao cấp trong ngành y
tế của thành phố (đã nghỉ hưu), nhưng vẫn còn giữ chức vụ gì đó trong một hiệp
hội chuyên môn. Tôi nghĩ danh xưng “Senior Doctor” (có lẽ nên dịch là “Bác sĩ
cao cấp” hay nôm na hơn là “Bác sĩ đàn anh”).
Nhưng tại sao lại cần một danh
xưng phân biệt “giai cấp” như thế? Tôi đoán có lẽ vị đồng nghiệp này muốn phân
biệt mình với “đám” bác sĩ đàn em chăng?
Một lần khác, khi
tôi phụ trách lên chương trình hội nghị, tôi thấy ban tổ chức viết tên diễn giả
bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Những người có danh xưng tiếng Việt ví dụ như “TS
BS Trần Thị …” được dịch sang tiếng Anh là “Dr. Dr. Tran Thi …”. Tôi không khỏi
cười thầm trong bụng vì chưa thấy nơi nào trên thế giới có cách viết lạ lùng
như thế. Tôi sợ nhất là trong hội nghị có đồng nghiệp ngoại quốc mà họ đọc được
cái danh xưng “Dr Dr” này chắc tôi tìm lỗ mà chui xuống không kịp quá! Tôi phải
rất tế nhị đề nghị cách viết “đơn giản” hơn là chỉ “Dr” thôi là đủ, nhưng cũng
phải vài ngày trao đổi qua lại, và cuối cùng phải qua vài phút thảo luận trên
Skype người ta mới chịu đề nghị này!
Tôi vẫn còn giữ một
danh thiếp khác với dòng chữ: “Dr Specialist II Nguyễn M”. Một anh bạn người Úc
tôi có lần tình cờ thấy danh thiếp trên bàn nên thắc mắc hỏi tôi “Specialist
II” là gì vậy. Lúc đó tôi cũng chẳng biết, nên đành nói: “I have no idea”,
nhưng tôi nói thêm rằng tôi đoán đó là bác sĩ chuyên khoa gì cấp 2 gì đó. Anh bạn
đồng nghiệp cười nói mỉa mai (rất dễ ghét) rằng: ước gì tao cũng được cấp II nhỉ?
Không nghi ngờ gì nữa:
người Việt rất sính danh xưng. Báo chí trong quá khứ đã nhiều lần nêu vấn đề
này. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt về những nhầm lẫn về danh xưng
(honorific), tước hiệu, và nghề nghiệp ở Việt Nam mà tôi từng chứng kiến trong
các hội nghị. Nghe những lời giới thiệu dài lòng thòng như “Giáo sư, tiến sĩ,
nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động, bác sĩ Nguyễn Văn …” nó khôi hài làm sao!
Tôi vẫn tự hỏi tại
sao người ta thích danh xưng trước tên mình? Kinh nghiệm của tôi, khi tiếp xúc
với những người hay sử dụng danh xưng cho thấy họ thường dùng danh xưng với những
động cơ sau đây:
1. Nuôi dưỡng niềm
kiêu hãnh cá nhân. Danh xưng thường có xu hướng bơm phồng “cái tôi” của một cá
nhân, và do đó làm cho cá nhân đó tự đánh giá cao chính mình hơn là thực tế.
Bà
Jill Biden, vợ phó tổng thống Mỹ Joe Biden, từng phàn nàn rằng bà rất “bệnh”
khi nhận email và thư gửi đến gia đình với dòng chữ “Sen. and Mrs Biden” (Thượng
nghị sĩ và Bà Biden). Bà muốn được danh xưng là “Sen. and Dr. Biden”, và thế là
bà đi học đế lấy bằng tiến sĩ Anh văn. Sau 4 năm nghiên cứu, bà được trao bằng
tiến sĩ ở tuổi 55. Câu chuyện bà Biden sính danh là đề tài đàm tiếu của giới
báo chí Mỹ hồi đầu năm nay.
2. Một hình thức tự
quảng cáo. Thật ra, một số người sử dụng danh xưng "Tiến sĩ" hay
"Giáo sư" nhắm mục đích tăng giá trị, trọng lượng của ý kiến của họ.
Trong thực tế, công chúng cũng có khuynh hướng xem ý kiến của một “Giáo sư tiến
sĩ” có giá trị cao hơn ý kiến của một … nông dân. Bởi vì đánh giá cao ý kiến của
những vị sư sĩ này, nên ít ai dám chất vấn hay phản bác lại ý kiến của họ.
Nhưng không có bất cứ một lý do nào để xem ý kiến của một vị giáo sư hay tiến
sĩ có giá trị hơn ý kiến của một nông dân; vấn đề là logic và bằng chứng, vì
hai khía cạnh này mới chính là thước đo giá trị của ý kiến.
3. Mong muốn được
người khác kính trọng. Đây là biện minh (hay lý lẽ) của những người chức sắc
tôn giáo, vì họ cho rằng họ cần những “Thượng tọa”, “Hòa thượng”, “Linh mục”,
“Mục sư”, v.v… để tín đồ tỏ lòng kính trọng họ. Thế nhưng tôi lại nghĩ các Phật
tử hay tín đồ Công giáo vẫn có thể gọi “thầy” và “cha” mà đâu có tỏ ra thiếu
kính trọng gì đâu!
4. Gây chú ý. Người
sử dụng danh xưng ngầm nói cho người khác rằng họ là người quan trọng và đáng
được kính trọng. Mặc dù họ không bao giờ thú nhận ý đồ ngầm này, nhưng nghiên cứu
tâm lý cho chúng ta biết động cơ sử dụng danh xưng là để gây chú ý như ca sĩ
thích làm trò khác lạ để thu hút khán giả. Có nhiều lần tôi chú ý đến những
danh xưng như “Giáo sư thực thụ” và tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Ở Mỹ, chúng ta biết
có 3 bậc giáo sư:
Assistant Professor, Associate Professor, và Professor. Không
cần đến tính từ “thực thụ”, vì chức danh nào cũng thực thụ. Tôi nghĩ chỉ “Giáo
sư” là đủ rồi. (Dĩ nhiên có người có những danh xưng chính thức như
“Distinguished Professor” hay “Honorary Professor” thì họ có quyền thêm tính từ
gì đó cho thích hợp.)
5. Khao khát quyền lực
và trần tục. Một nghiên cứu ở Mexico cho thấy rất nhiều chính trị gia không có
văn bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn tìm cách mua danh xưng “Dr” bằng cách tranh thủ
hay vận động để được một đại học nào đó cấp cho bằng “tiến sĩ danh dự” (honour
doctor). Với danh xưng này, họ rất dễ thu hút cảm tình của cử tri và có cơ may
đắc cử hơn những người không có danh xưng. Tình trạng này cũng giống như ở VN,
nơi mà các quan chức rất thích có “TS” trước tên họ.
6. Quảng bá thái độ
“elite”, thái độ kẻ cả, hoặc thái độ toàn trị. Những người này thường tự tô son
điểm phấn cho mình bằng cách “tiêm” vào mình những danh xưng thật kêu và thật ấn
tượng và bắt đầu nhiễm thói kiêu ngạo xem thiên hạ như dưới tay mình.
Ba tôi lúc sinh tiền
thường nói rằng những người cần đến danh xưng phía trước tên mình là một tín hiệu
cho thấy người đó hoặc là bất tài, hoặc là thiếu tự tin. Vì thiếu tự tin, nên họ
phải lấy những danh tước đó ra để tự nâng cao giá trị cho mình. Ngẫm đi nghĩ lại
tôi thấy Ba tôi cũng có lý, bởi vì ở Việt Nam những người thích dùng danh xưng
là các quan chức trong chính quyền. Là quan chức, làm việc hành chính hay chính
trị, họ không phải làm chuyên môn; do đó, có lẽ họ có nhu cầu phải quảng bá
mình như là một nhân vật "văn võ song toàn", và để cho … oai.
Tiến sĩ giấy
Ở Việt Nam, vấn đề
danh xưng là vấn đề “merit”. Trước tình trạng tiến sĩ giấy, tiến sĩ dỏm
tràn lan ở Việt Nam như hiện nay, bất cứ ai được giới thiệu là “tiến sĩ”, người
dân ngao ngán nghĩ thầm “lại một tiến sĩ giấy”. Trong bối cảnh đa số (70%
hay 95%) giáo sư Việt Nam không xứng đáng với chức danh đó trên trường quốc tế,
và với hệ thống phong tước danh như hiện nay thì làm sao danh xưng này củng cố
lòng tin của người dân. Nhưng ở Việt Nam vẫn có những tiến sĩ, những giáo sư thật
(tức là họ có học và có nghiên cứu xứng đáng với danh xưng đó), nhưng khổ nỗi
vì đại đa số những tiến sĩ giấy và giáo sư dỏm kia làm cho công chúng chẳng biết
ai là giả và ai là thật. Do đó, cách đánh bóng danh xưng như ở Việt Nam gây ra
tình trạng vàng thau lẫn lộn.
Cách dùng danh xưng
hiện nay lẫn lộn giữa bằng cấp, phẩm hàm danh dự, và chức vụ. Ai cũng biết cử
nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là những học vị; phó giáo sư và giáo sư là chức danh
khoa bảng trong trường đại học; những “nghệ sĩ nhân dân”, “nghệ sĩ ưu tú”, “nhà
giáo nhân dân”, “nhà giáo ưu tú” (toàn bắt chước Trung Quốc!) là những tước hiệu
danh dự; còn những “giám đốc”, “đại tá”, “bộ trưởng”, v.v… là chức vụ. Ở Việt
Nam, tôi thấy trong các hội nghị, những tước hiệu, chức vụ và học vị đều được
liệt kê trước tên người diễn giả, chẳng khác gì một bản lý lịch bằng cấp và chức
danh! Ở nước ngoài, trong các hội nghị khoa học, người ta chỉ giới thiệu diễn
giả bằng một danh xưng duy nhất như “Dr” hay “Professor”, chứ rất rất hiếm ai
giới thiệu thêm chức vụ, và chắc chắn chẳng có ai giới thiệu diễn giả dài lê
thê như ở Việt Nam (nếu có ai giới thiệu như thế chắc chắn hội trường sẽ cười ầm
lên)!
Cách dùng danh xưng
như hiện nay chẳng những lẫn lộn thật giả, giữa chức vụ và học vị, mà còn làm
trò cười cho đồng nghiệp quốc tế. Trường hợp mà tôi thuật lại ở trên về
“Specialist II” là một ví dụ điển hình. Bởi vì chỉ có Việt Nam mới có hệ thống
bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II, nên đồng nghiệp quốc tế chẳng thể nào hiểu
được.
Thật ra, họ cũng chẳng cần hiểu, họ chẳng thèm tốn thì giờ đọc danh thiếp
với những chi chít “Dr”, “Professor” làm gì; họ quan tâm đến CV, đến thực tài
hơn. Có liệt kê chín mười danh xưng đi nữa mà CV chẳng có gì, thì chỉ làm cho đồng
nghiệp ngoại quốc cười khẩy mà thôi. Khi thực tài không tương đồng hay còn quá
thấp so với học hàm và học vị, thì những danh xưng đó chỉ nói lên hội chứng
inferiority complex (mặc cảm tự ti) .
Nguyễn Tuấn
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.