Tại
các nước kỹ nghệ phát triển, thịt cá là một phần quan trọng trong đồ ăn. Riêng
tại Hoa Kỳ giàu có, thịt là món ăn chính trong bữa đối với nhiều người. Nhưng
trong những thời gian gần đây, ăn chay đã trở thành một phong trào. Đồ chay chế
biến đủ loại bày bán trong các tiệm thực phẩm sức khỏe (health food stores).
Trong khung cảnh này, người ta ăn chay vì những lý do khác nhau: Bảo vệ môi
sinh, chăm lo sức khỏe, thương yêu súc vật, lý do thời thượng, và cả vì lý do
thương mại.
Khi
có người ăn chay thì có người chế tạo đồ chay theo phương pháp kỹ nghệ đem bán.
Và dĩ nhiên để gia tăng doanh số cũng như lợi tức thì người ta đề cao ích lợi
của ăn chay nhằm gia tăng số người tiêu thụ đồ chay. Ở đây đề cập đến ăn chay
như là một hiện tượng xã hội Âu Mỹ này, mà chỉ suy nghĩ về ăn chay trong Phật
giáo, và dưới khía cạnh dinh dưỡng tổng quát.
Ăn
Chay Trong Đạo Phật:
Người
Việt Nam
thường cho rằng ăn chay là một yêu cầu tu tập của các tăng sĩ và các Phật tử.
Các tăng sĩ phải ăn chay trường, tức là hoàn toàn không trong trường hợp nào
được ăn thịt cá. Các tín đồ thì tùy tâm nguyện mà ăn chay một hay nhiều ngày
trong tháng hoặc theo trường chay. Nói cho đúng thì yêu cầu ăn chay chỉ áp dụng
với các tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa, truyền từ Trung Hoa sang, gọi là Phật
giáo Bắc Tông, các tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, hay Nam Tông, có truyền thống
khất thực, thì không bắt buộc ăn chay, mà ăn các thực phẩm do quần chúng tùy
duyên trao tặng.
Sự
khác biệt này đã khiến một số nhà nghiên cứu tìm tòi sách vở để xem lời Phật
dạy đối với vấn đề ăn chay ăn mặn ra sao, nhằm phân định phải trái. Những dẫn
chứng dĩ nhiên là khác nhau tùy theo nguồn kinh sách và tùy theo định kiến cá
nhân đối với ăn chay.
Phật
giáo Nguyên Thủy cho rằng Đức Phật không phải là người ăn chay, không đặt vấn
đề chay mặn, và hàng tỳ kheo đi khất thực đón nhận, không phân biệt, thực phẩm
dân chúng đóng góp cúng dường. Ngược lại ăn chay là một nhu cầu tu tập bắt buộc
trong các kinh điển Phật giáo Đại thừa Trung Hoa. Vì thế, nhiều người cho rằng
ăn chay là một nét đặc thù của Phật giáo Đại thừa. Thực sự thì ta nên biết rằng
một số tu sĩ Nhật Bản thuộc Phật giáo Đại thừa cũng ăn thịt. Ngoài ra, một giáo
phái Đại thừa Tây Tạng (áo đỏ) cũng ăn thịt. Ngay một số để tử Đức Đạt Lai Lạt
Ma lúc sang Mỹ thuyết giảng khi được hỏi về thực phẩm cũng không đặt vấn đề
chay mặn. Trong sách "Quan Điểm Về Ăn Chay của Đạo Phật" tác giả Tâm
Diệu đã viết rằng "ăn chay không phải là nét đặc thù của Phật giáo Đại
thừa nói chung và của Phật giáo Đại thừa Trung Hoa nói riêng". Tâm Diệu đã
dẫn chứng một số tài liệu để khẳng định "ăn chay đã có trong thời kỳ Phật
còn tại thế và được phát triển mạnh mẽ vào thời đại Asoka, vị hoàng đế Ấn Độ
trị vì từ năm 274 đến năm 232 trước Công nguyên".
Ăn
chay và sức khỏe
Tác
giả Tâm Diệu vừa viện dẫn kinh sách, vừa lý luận dựa trên một số tài liệu khoa
học và bài viết hiện đại về môi sinh để cổ võ việc ăn chay. Bài này không nhằm
mục đích đó mà chỉ muốn đưa lên một số suy nghĩ về ăn chay, trên cơ sở hiểu
biết cá nhân về đạo Phật cũng như về dinh dưỡng.
Các
tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống, mà do
nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý. Ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa
gươm đao, giới luật không giữ thì không lợi ích gì. Luận cứ này không khác gì
mấy lối nghĩ của người bình dân "ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói
dối". Cái lý luận bình dân này xét ra cũng hơi có tính bài bác ăn chay.
Ngược lại, theo Phật giáo Trung Hoa, ăn chay là một phần của việc thì
hành giáo pháp. Triều đại nhà Lương (thế kỷ thứ 6 sau Thiên Chúa), nhà vua cấm
thịt cá trong các yến tiệc hoàng cung, kêu gọi dân chúng ăn chay và cấm giết
thú vật trong các nghi lễ Đạo giáo. Thời Minh (thế kỷ 16-17), hòa thượng Vân
Thế Châu Hoằng là người cổ võ ăn chay mạnh mẽ, vì thế có người đã cho rằng ăn
chay bắt đầu từ thời này. Bênh vực cho yêu cầu ăn chay trong việc hành trì đạo
pháp, có nhiều luận cứ trong kinh sách Đại thừa, như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại
Bát Niết Bàn? Chủ yếu coi ăn chay là thi hành giới cấm sát sinh, và cũng là
thực hành hạnh từ bi.
Ngoài
ra, ăn chay cũng là để tránh ăn thịt lẫn nhau, trong đó có thể có người thân
thích cật ruột của mình bị trầm luân theo luật luân hồi. Nếu nhận rằng giới cấm
sát sinh và hạnh từ bi không chỉ áp dụng với người mà còn phải áp dụng với mọi
loài từ con sâu cái kiến trở đi, thì ăn thịt sinh vật không thể nào biện giải
được. Nếu tin tuyệt đối vào luân hồi, làm kiếp người hay kiếp thú vật hoàn toàn
tùy duyên nghiệp nhân quả quyết định, thì rõ ràng ăn thịt động vật cũng là ăn
thịt con người. Tuy nhiên cái lòng tin tuyệt đối này cũng như sự diễn dịch giáo
lý của Phật có khác nhau, tùy theo văn hóa và trình độ phát triển của từng dân
tộc cũng như tùy sự hiểu biết cá nhân.
Truyện
kể lại rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu Nguyên Thánh
Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ Trung Thượng Sĩ, người
sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, đã điềm nhiên ăn thịt cá. Thái
hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao
được?" Ngài cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm
Phật. Phật không cần làm anh". Tuệ Trung Sĩ là một bậc tu hành giác ngộ.
Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài
Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh sách Đại thừa. Vậy thì sự thật ở đâu? Ăn
chay là phải, hay ăn mặn là phải trong việc tu hành theo đạo Phật?
Câu
trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái
phá chấp trong phương tiện tu hành.
Thời
nay, ta thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy rẫy các món
như giò, chả, thịt kho, cá hấp, tôm xào? làm bằng đồ chay. Về vật chất, đúng
rằng các món này thuần làm bằng rau đậu, không có cá thịt. Nhưng về tinh thần,
cái ý thức ăn giò, chả, thịt kho, cá hấp? rõ ràng biểu lộ sự trói buộc vào
trong những ý niệm quy ước nặng nề thân khẩu ý, không giúp ích chút nào cho sự
tu trì. So với một tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, đón nhận tự nhiên mọi thực phẩm
dân chúng cúng dường, không chú ý tìm cái ngon trong đó, coi ăn như một nhu cầu
bình thường và tự nhiên để sống và tu hành, thì người ăn chay với các món cầu
kỳ sửa soạn để phục vụ khẩu vị, sắc hương (?), chưa chắc đã là người tiến gần
hơn đến chỗ giác ngộ. Nói như vậy cũng không phải để bênh vực những kẻ cố tình
khai thác cái ý "phá chấp", "cốt ở tâm tu" để mà sa đà ăn
mặn, dối mình, gạt người.
Ăn
Chay Và Dinh Dưỡng:
Ăn,
khởi thủy vốn là một yêu cầu tự nhiên để sống còn, nhưng dần dần đã trở thành
một cái dục thú lớn ở đời, và là một trong những động lực thúc đẩy
con người vật lộn đấu tranh. Từ chỗ sống nhờ ăn, người ta trở thành khổ
vì ăn. Khổ trong sự tìm kiếm đồ ăn đã đành, khổ còn vì ăn không đúng mà trở
thành đau bệnh. Trong cái mạch suy nghĩ này, nếu giữ cho cái ăn không trở thành
một ám ảnh, với những yêu cầu phức tạp thêm thắt quanh đó thì đã là một bước
diệt dục. Người Mỹ có câu "you are what you eat", ý nói rằng thực
phẩm ảnh hưởng nhiều vào con người. Một cách đơn giản, ăn đường mỡ béo bổ nhiều
thì dễ mập phì, sinh bệnh tim mạch hay ung thư v.v. Câu này thường nêu
lên bởi những nhà dinh dưỡng, mục đích là nhằm khuyên con người để ý về việc
chọn đồ ăn tốt cho sức khỏe mà tránh những thức độc hại dầu ngon miệng, hợp
khẩu vị.
Các
cụ ta ngày xưa không nói như người Mỹ nhưng cũng có quan niệm rằng những giống
vật ăn thịt thường là bạo tạo tợn, như hổ báo, còn các giống ăn cỏ thường là
hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền văn hóa của những giống dân du mục, sống
bằng săn thú và thịt động vật cũng có những nét hung dữ năng nổ hơn là văn hóa
của những giống người sống bằng nông phẩm trồng trọt. Đối với con người thì
rượu nồng dê béo thường được coi là những món ăn khích động thú tính con người.
Và không lấy gì làm lạ là những người tham dục thường tìm đến nào là huyết chim
sẻ, máu rắn hổ mang, thịt dê đực vân vân, chứ ít ai tìm ăn rau cỏ trái cây. Tóm
lại thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và tinh thần con người.
Nhiều
người, trong sự hăng say cổ võ ăn chay, đã đi tới chỗ khẳng định ăn chay tốt
hơn và làm con người khỏe hơn ăn mặn (tức là ăn thịt cá). Ngược lại, những
người tin tưởng mù quáng vì không hiểu nhiều y học Tây phương lại cho rằng cá
thịt là những thực phẩm không thể thiếu để làm cho cơ thể khỏe mạnh. Thực sự
vấn đề không đơn giản như thế. Có nhiều người Ấn Độ ăn chay từ nhỏ đến lớn mà
vẫn khỏe mạnh không tật bệnh. Có nhiều người chỉ ăn thịt cá mà bệnh tật ốm đau
đủ thứ.
Nói
chung, ăn mà không đúng cách thì bất kể chay mặn đều là không tốt. Riêng nói về
ăn chay, thì có thể khẳng định rằng các thực phẩm chay đủ cung cấp cho người ta
các yếu tố dinh dưỡng cơ bản cần thiết cho cơ thể, gồm chất bột, chất béo, chất
đạm, chất xơ và các chất sinh tố cũng như muối khoáng. Ngày nay người ta đã
phân biệt ra ba loại ăn chay.
- Loại
thứ nhất gồm các loại nông phẩm như rau, đậu, hạt, trái cây, trứng sữa và
phó sản (như bơ, kem, phó mát).
- Loại
thứ hai cũng gồm các thực phẩm như trên, trừ trứng.
- Loại
thứ ba chỉ gồm có rau đậu trái cây mà không có trứng và sữa cùng các phó
sản. Người Việt Nam
trước đây, vì không phát triển chăn nuôi, ít có sữa và ít dùng sữa, và coi
trứng là có đời sống, nên ăn chay thuộc loại thứ ba.
Về
phương diện khoa học, trứng chỉ là một tế bào trong một môi trường dinh dưỡng.
Nếu có thụ tinh thì trứng mới trở thành một bào thai và phát triển thành sinh
vật khi có nhiệt độ thuận lợi do ấp trứng thiên nhiên hay trong máy ấp. Một
cách thực tế là gà nuôi kỹ nghệ để cho đẻ lấy trứng thì không có thụ tinh và
trứng chỉ là một tế bào, như nhiều người tế bào khác loại ra hằng ngày. Nói
chung, lối ăn chay có trứng sữa không ngại thiếu dinh dưỡng nếu không biết đặc
tính của từng loại thực phẩm để mà chọn lựa sử dụng theo những tỷ lệ thích hợp.
Thực
vậy, trong các loại đậu, đặc biệt là đậu nành thì có chất đạm, các hạt như hạt
vừng (mè), hạt điều thì có nhiều chất béo. Nếu ăn chay nhà nghèo theo kiểu Việt
Nam
ngày xưa chủ yếu toàn rau mà thiếu đậu cùng các loại hạt và những phó sản (đậu
phụ, dầu, sữa, đậu nành) thì suy dinh dưỡng là chắc chắn. Ngược lại, người Việt
tại Mỹ hiện nay, trong cách sửa soạn đồ chay thường rộng rãi sử dụng dầu, mè
(vừng), đậu phụng, nước cốt dừa, đường v.v để cho các món ăn ngon lành, bùi
béo. Do đó đã tạo nên một loại dinh dưỡng không thăng bằng, không tốt cho cơ
thể. Lý do chỉ vì dùng chất béo và chất đường quá nhiều, là những thứ dễ sinh
bệnh tim mạch và tiểu đường. Tóm tắt lại thì nếu biết rõ đặc chất dinh dưỡng
của từng loại đồ chay để mà chọn lựa ăn chay một cách quân bình theo những hiểu
biết khoa học, thì ăn chay có khả năng dinh dưỡng không khác gì ăn mặn, mà còn
có những lợi điểm giúp con người trầm tĩnh xuống, thích hợp cho sự tu hành yên
lắng của tâm hồn.
Ăn Chay Và Tu Hành:
Nếu
cứ viện dẫn và diễn dịch kinh điển để nói rằng tu hành theo Phật giáo là phải
hay không phải ăn chay thì cuộc luận bàn tìm đúng sai này sẽ không bao giờ chấm
dứt. Bởi vì như trên đã nói, kinh điển khác nhau tùy theo nguồn gốc Đại thừa
hay Nguyên thủy. Những luận cứ Đại thừa cũng như Nguyên thủy đều có những cái
lý riêng. Đạo Phật lại đã trải qua một thời kỳ trầm lắng gần ba thế kỷ sau khi
Đức Phật viên tịch khiến cho sách vở cũng như những diễn truyền không tránh
khỏi khác nhau. Vả lại những kỳ tập kết của các đệ tử trong khoản vài trăm năm
sau khi Phật viên tịch để thảo luận về giới luật đã không có sự hoàn toàn thống
nhất ý kiến.
Ở
đây chỉ xin trình bày một cách nhìn thực tiễn về ăn chay, không mang tính cách
trường phái, giáo điều. Như đã tóm lược ở trên, thực phẩm chay có đầy đủ các
chất chính cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người (chất đạm, chất béo,
chất bột, chất xơ, sinh tố và các khoáng chất). Cho nên ăn chay đúng cách không
khác gì ăn mặn về khía cạnh dinh dưỡng. Ngoài ra nhìn chung thực phẩm chay còn
có những ảnh hưởng tĩnh lặng lên phản ứng con người, ngược với những đồ ăn gốc
động vật.
Đứng
về phương diện khẩu vị, tất cả chỉ là thói quen. Nếu quen ăn nhiều mỡ và thịt
cá thì không thể thích các đồ ăn chay nhiều chất bột chất sơ. Ngược lại, nếu
không ăn thịt cá quen thì chỉ thấy ngon miệng với rau đậu. Con người vốn thuộc
loại ăn tạp (omnivore), nghĩa là ăn đủ thứ, nếu bỗng nhiên chỉ ăn có một loại
thực phẩm chay thì sẽ có khó khăn.
Vượt
qua khó khăn này chính là một nỗ lực tu hành, gạt bỏ những trói buộc của thân
khẩu ý. Tuy nhiên, khi đã ăn chay mà còn bày vẽ vọng tưởng, nào là giò, chả, cá,
thịt, thì tinh thần này lại làm cho con người bị trói buộc mà giảm mất ý nghĩa
của sự chọn lựa ăn chay.
Nhìn
ra như vậy người cư sĩ Phật giáo sẽ chọn được cho mình một thái độ thích hợp
đối với vấn đề ăn chay trên con đường tìm đến thân tâm an lạc. Một cách dung dị
và thực tế, có thể nói ăn chay là một phương tiện tu hành hữu ích./.
Bác sĩ Trần Xuân Ninh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.