Tác
giả mặc áo màu xanh biển, ngồi bên phải, chụp hình kỷ niệm với bạn trong Camp Pendleton
năm 1975
Lái
xe trên Xa lộ 5 từ Quận Cam xuống San Diego, trên đường có bảng tên và bảng chỉ
lối vào Camp Pendleton, là căn cứ thuỷ quân lục chiến Mỹ có chiều dài hơn 20
dặm.
Đối
với người Mỹ gốc Việt, đặc biệt với nhiều người ở Quận Cam, Camp Pendleton là
một cái tên gợi nhớ vì trong căn cứ này vào cuối tháng 4/1975 những lều trại
đầu tiên được gấp rút dựng lên để đón người tị nạn vào Hoa Kỳ. Đây đã là nơi
tạm trú của 50 nghìn người, hầu hết đến từ Nam Việt Nam và một số ít từ
Campuchia. Những người Việt được đưa đến đây là trong số 130 nghìn người đã rời
khỏi quê hương khi quân cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975 đưa đến
việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.
Người
Việt di tản khỏi Việt Nam bằng máy bay hay bằng thuyền bè được đưa đến
Philippines, đảo Guam hay đảo Wake, cùng lúc chính phủ Mỹ mở ra bốn trại để đón
người tị nạn vào nội địa là Camp Pendleton ở California, Fort Chaffee ở
Arkansas, Eaglin Air Force Base ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania.
Nơi
đây 40 năm trước là những lều trại đón người tị nạn
Tôi
rời Việt Nam
chiều 29/4/1975. Hành trình đến Mỹ đã qua các nơi: một tuần neo ngoài biển Singapore , 6 tuần trên Grande
Islands trong căn cứ Subic Bay của hải
quân Mỹ ở Philippines , một
tuần ở Guam và hơn một tháng ở Camp
Pendleton .
Đầu
tháng 8/1975 tôi rời Camp Pendleton , theo gia đình ông anh họ là thẩm phán Trần
An Bài ra định cư tại thành phố Berkeley ở miền
Bắc California .
Sau
khi tốt nghiệp đại học, tôi tình nguyện gia nhập Peace Corps và được gửi sang Togo , châu Phi
dạy học. Năm 1986 tôi về Đông nam Á làm việc cho Cao ủy Tị nạn nên đã trở lại
thăm Singapore và Subic Bay vào cuối thập niên 1980.
Bốn
mươi năm qua chưa về Guam thăm Asan hay về lại Camp Pendleton .
Đã nhiều lần lái xe trên Xa lộ 5, nhìn thấy căn cứ của thủy quân lục chiến rộng
lớn bên triền đồi, nhưng chưa có dịp ghé thăm, vì e ngại ra vào cơ sở quân sự
có khó khăn, cần giấy phép.
Cuối
tháng Tư vừa qua tôi đã về lại nơi mình đầu tiên đặt chân vào đất Mỹ cách đây
bốn mươi năm. Chỉ hai vợ chồng tôi tìm đến chỗ đã từng là lều trại vào năm 1975.
Đúng
ra sẽ có hàng nghìn người cũng đến trong một sinh hoạt tưởng niệm 30/4, nhưng
ban tổ chức phía người Việt đã quyết định hủy chương trình tại đây vì không
được phép hát quốc ca và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa cũ.
Khu
ba-rắc nay vẫn còn
Thất
vọng khi hay tin chương trình họp mặt được dời về địa điểm mới trong khu vực
Little Saigon, nhưng tôi quyết định vẫn về thăm lại trại nên đã lên mạng tìm
điện thoại, email để hỏi việc xin giấy vào căn cứ quân sự ra sao.
Các
cơ quan điều hành trại tôi hỏi, khi nhắc đến sự kiện người tị nạn Việt đã đến
đây 40 năm trước thì có người biết, người không. Khi hỏi về khu lều trại tị nạn
cũ, không ai biết ở đâu trong căn cứ. Tất cả đều nói để được vào căn cứ chỉ cần
bằng lái xe hay hộ chiếu. Vào cổng chính sẽ có thông tin hướng dẫn.
Sáng
sớm thứ Bảy 25/4, từ vùng Vịnh San Francisco chúng tôi bay xuống nam California
rồi mướn xe lái đi Camp Pendleton.
Trên
đường, ghé phố Bolsa ăn sáng. Little Saigon
ngập bóng cờ vàng, cờ hoa. Bốn mươi năm trước nơi đây còn là những cánh đồng
cây trái.
Vào
quán phở, gặp một bác mặc áo thun vàng trước ngực có in hình trống đồng và chim
lạc bên hàng chữ đỏ “Commemorating 40 Years of Vietnamese Americans: Journey to
Freedom & Beyond - Tưởng niệm 40 Năm Hành trình đến Tự do và Vươn tới” là
chủ đề của buổi lễ dự định được tổ chức tại Camp Pendleton.
Tác
giả đứng bên tượng đài Hand of Hope, Bàn tay Hy vọng, tác phẩm của nhà điêu
khắc Nguyễn Lưu Đạt
Muốn
mua một áo làm kỷ niệm, mấy bác chỉ cho nơi bán gần tiệm phở. Tôi cũng hỏi thăm
từ đây đến Camp Pendleton bao xa. Một bác cho biết quãng
đường là 21 dặm và cũng nói chương trình đã bị hủy bỏ như tôi biết.
Hành
trình tìm về trại tị nạn xưa của tôi tưởng dễ, nhưng không.
Từ
Little Saigon, lái xe trên Xa lộ 5 gần một giờ đồng hồ thì đến thành phố
Oceanside, theo bảng chỉ đường dẫn vào cổng chính Camp Pendleton. Anh lính gác
hỏi tôi đi đâu. Tôi nói muốn đến nơi ngày xưa là trại tị nạn cho người Việt.
Anh nói chương trình đã hủy bỏ. Tôi trả lời có biết, nhưng vẫn muốn ghé lại vì
đã sống ở đó vào năm 1975. Anh yêu cầu cho xem bằng lái xe. Tôi đưa cho anh và
hỏi đường. Anh nói không biết, cứ vào trong sẽ có thông tin hướng dẫn.
Không
ngờ việc vào một căn cứ quân sự lại dễ dàng đến thế. Vào trong thấy những cửa
hàng, siêu thị và một bệnh viện cao tầng. Chắc chắn đây không phải là khu vực
trại tị nạn cũ vì quá gần với xa lộ và thành phố.
Vào
sâu hơn là những cơ sở huấn luyện quân sự. Đường dẫn lên núi, hai bên là nhà
kho, thỉnh thoảng có khu gia binh.
Không
thấy bảng hướng dẫn chỉ đường đến trại tị nạn cũ hay tượng đài kỷ niệm mà vài
hôm trước tôi thấy trên báo Việt ngữ có đăng hình, đứng cạnh tượng là những
người cầm cờ Hoa Kỳ và cờ Việt Nam Cộng hòa. Lúc tôi rời trại, tượng sắp hoàn
thành, còn mầu xi-măng. Trong ảnh mới nhất tượng có mầu trắng.
Ghé
vào tiệm McDonald trong căn cứ. Hỏi một người lính già, hỏi một anh lính trẻ
cũng không ai biết gì về lều trại 40 năm trước hay về tượng đài.
Thẻ
ăn của người tị nạn
Anh
lính trẻ cho chút hy vọng khi anh nói nếu tiếp tục đi vào sâu hơn, chừng mươi
phút lái xe sẽ thấy một bảo tàng. Ở đó sẽ có thông tin tôi muốn tìm.
Đến
nơi, Mechanized Museum đóng cửa. Chung quanh có súng
đạn, xe tăng được trưng bày.
Tôi
trở ra. Vào PX trong khu gia binh tìm mua bản đồ. Chị bán hàng nói phải ra gần
cổng chính, vào cửa hàng lớn MCX mới có bản đồ căn cứ. Tôi hỏi có biết nơi đặt
tượng đài kỷ niệm người tị nạn, chị không biết nhưng rồi giới thiệu tôi cho một
người lớn tuổi. Ông chỉ đường đến bệnh viện hải quân cũ, nay không còn sử dụng.
Tôi mừng khi nghe được hai chữ “Naval
Hospital ” vì còn ghi
trong kí ức. Đây là nơi trong thời gian ở trại tôi đã có một lần ghé.
Theo
lời chỉ dẫn, chạy về hướng Lake
O’Neil thì thấy bệnh
viện. Nay bỏ hoang. Đúng là nơi tôi đã có dịp ghé qua cách đây 40 năm.
Nhớ
mãi nơi này vì từ khi rời Việt Nam tôi chỉ ở lều trại, ngủ trên ghế bố mà chung
quanh toàn cây xanh như ở Subic Bay, đồng cỏ khô như ở Camp Pendleton hay trơ
trọi giữa nắng gió biển như ở Guam, vì thế được vào một nhà kiếng cao tầng như
bệnh viện này là một sự kiện không phai mờ trong kí ức.
Thời
gian sống trong Camp
Pendleton tôi chỉ có hai
dịp ra khỏi khu lều trại bằng xe buýt nhà binh. Một lần đi PX với ông anh họ.
Đến đó, anh mua cho các em những cuốn sổ tay để đi học Anh văn ghi chép và một
ra-đi-ô cát-sét bốn băng để sáng nghe đài BBC, VOA và để sang lại những băng
nhạc Việt đang được chuyền tay nhau vì sợ khi rời trại sẽ không còn tìm thấy.
Tờ
giấy ghi nơi cư ngụ là lều trại của một số bạn quen
Một
lần đi xa khác là đến bệnh viện này. Tôi mừng khi nhận ra nơi mình đã từng ghé
qua. Ngày đó, vừa bước vào cửa bệnh viện là cảm nhận ngay được một mùi thơm đặc
biệt.
Sau
khi chụp ảnh kỷ niệm, tôi lái xe vòng quanh khu vực nhưng không tìm ra tượng
đài hay dấu tích trại tị nạn cũ.
Trở
ra cổng chính, vào một cửa hàng MCX lớn như Costco tìm mua bản đồ. Cô bán hàng
nói không có bản đồ in rồi dẫn tôi đến quầy dịch vụ khách hàng. Ở đó tôi nhận
được bản copi vẽ sơ đồ trại. Hỏi về tượng đài, lấy bàn tay để diễn tả, cô tiếp
viên nói nếu không biết ở khu vực số mấy sẽ khó tìm ra vì căn cứ rất rộng. Cô
cho một số điện thoại, đề nghị tôi gọi đến đó sẽ có câu trả lời. Tôi gọi, nhưng
không ai nhắc máy.
Sau
hai giờ loanh quanh trong trại mà không có hy vọng, nhà tôi đã muốn bỏ cuộc.
Tôi vận động tinh thần, kể rằng khi tôi đi Cuba, tiếng Tây Ban Nha không rành
thế mà còn tìm ra được quán ăn Việt duy nhất ở Thủ đô Havana và nơi đặt tượng
đài Hồ Chí Minh, trong khi ở đây là đất nước mình, ngôn ngữ sành sõi mà lại
không tìm ra nơi muốn đến thì thật vô lý.
Dùng
iPhone tìm cụm từ “Camp Pendleton and Vietnamese refugees 1975” thì ra hình
tượng đài trong một bài báo tiếng Anh. Lần mò rồi tìm ra tên trại Talega trong
Area 64. Xem sơ đồ có ghi khu vực này.
Ra
khỏi cổng chính Camp
Pendleton , chúng tôi đi
ngược Xa lộ 5 về hướng bắc. Nửa giờ sau vào đến cổng San Onofre. Sau khi trình
bằng lái xe, hỏi đường lên khu Talega, anh lính nói cứ chạy về phía phải sẽ
thấy.
Lời
bài hát “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy được tác giả chép lại trong ngày
3/7/1975 khi sống trong trại
Trời
trở nên âm u và bắt đầu mưa. Sau đoạn đường ngắn có nhà thì toàn đồi cỏ khô.
Coi sơ đồ thấy vài con đường nhưng phải chạy khá xa mới có một ngã rẽ trái lên
núi. Tôi quay ngược lại nơi gần cổng vào để dò hỏi rõ trước khi tiếp tục leo
núi.
Đến
khu có cửa hàng, hỏi mấy bạn trẻ nhưng cũng không ai biết. May thấy hai anh
lính MP, tôi hỏi về lều trại và lại đưa bàn tay ra làm dấu tượng đài. Một anh
biết rõ nơi tôi đang muốn đến, chấm lên sơ đồ và chỉ đường rành rẽ.
Đường
leo núi không một bóng xe. Hai mươi phút sau tượng đài mầu trắng hiện ra trước
mắt. Lúc đó gần 3 giờ chiều.
Trời
mưa to, âm u nhưng lòng tôi vui vì đã về lại được nơi mình đã từng sống tạm 40
năm trước. Chỗ này là nơi bắt đầu con đường dẫn vào lều trại, giờ hai bên chỉ
cỏ khô. Ngày trước quanh đây có đặt vài văn phòng tiền chế là nơi người tị nạn
mới đến khai hồ sơ, làm thủ tục nhập trại. Bây giờ có một căn nhà kiểu trại
lính ở bên phải.
Từ
ngoài là trại 8. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã sống trong trại này. Vào trong là lều
ăn, lều tắm. Trại 5, nơi tôi ở nằm bên trái. Bên phải là trại 4, 6. Sâu hơn là
khu ba-rắc trại 1, 2 và 3.
Những
ba-rắc còn đó. Vẫn những con số của từng căn như cách đây 40 năm đã là địa chỉ
của người tị nạn. Gần đó là mảnh đất sinh hoạt cho trẻ em vào ban ngày, tối là
nơi chiếu phim. Hàng ghế gỗ vẫn còn nhưng đã mục nát nhiều. Sân đá bóng gần đó
tôi không nhận ra vì đã phủ cỏ khô.
Tôi
ở Trại 5, Khu 9, Lều 12. Nằm chỗ nào trên đoạn đường này tôi không thể định vị
trí chính xác được vì giờ toàn cỏ khô. Chỉ phỏng đoán rồi dừng xe chụp hình.
Kí
ức 40 năm trước hiện về rõ như một khúc phim. Tôi nhớ những buổi học tiếng Anh
trong lều với các thày Đỗ Đình Tuân, Tạ Quang Khanh, Trần Văn Chương, với cô
Kelly. Nhớ buổi họp mặt sinh viên luật với giáo sư Nguyễn Văn Canh. Nhớ lễ Chúa
Nhật với cha Nguyễn An Ninh.
Phố
Bolsa của Little Saigon tưởng niệm 40 năm ngày 30/4
Nhớ
căn lều ở chung với các anh chị thỉnh thoảng buổi chiều yên tĩnh nghe có tiếng
rắn rung chuông mà sợ. Nhớ các bạn mới quen trong trại: Nguyễn Thị Thủy, Trần
Năm Châu, Nguyễn Huy Dư là sinh viên Đại học Sài Gòn. Nhớ các anh Nguyễn Văn
Bút, Nguyễn Văn Chinh là lính hải quân. Nhớ cô gái tên Lê Thị Phương Trang dễ
thương ở gần lều.
Nhớ
những bài ca quen thuộc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Lê Uyên
Phương vang vang trong lều mà những khi nhớ nhà tôi đã ngồi nghe và ghi lại.
Nhớ những buổi tối ra bãi cỏ xem phim hoạt hình “Popeye The Sailor”. Nhớ những
chiếc áo rộng thùng thình nhận từ hội từ thiện.
Nhớ
những bữa cơm chiều có thịt gà với hàng người dài như rồng rắn. Nhớ cảnh nhà ăn
vắng hoe vì món cá không hợp khẩu vị. Nhớ món chopsuey bữa trưa, cháo thịt bữa
sáng. Nhớ táo, cam thơm ngon.
Con
đường từ tượng đài vào đến khu ba-rắc tôi cảm thấy ngắn hơn nhiều so với 40 năm
trước. Có lẽ giờ tôi lái xe, ngày xưa đi bộ.
Nếu
chương trình tưởng niệm không bị hủy bỏ, lúc này đã có hàng nghìn người Việt ở
đây.
Hy
vọng 5 hay 10 năm tới người Việt sẽ có cơ hội cùng nhau về đây để nhớ lại những
ngày buồn đau khi nghĩ về quê hương cũ và những ngày đầy lo lắng nghĩ đến tương
lai nơi đất mới. Về đây để cùng nhau nhắc nhở cho thế hệ mai sau biết là từ
vùng đồi cỏ khô này cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã được thành hình. Rồi phát
triển và vươn lên.
Bùi
Văn Phú
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.