“…Tập
Cận Bình thừa kế một Trung Cộng tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập
niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết, Tập
Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát
hơn…”
Khi
nhận định về Trung Cộng các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung
Cộng là một thế giới hay một đế quốc - hay một thiên hạ theo cách nói
của người Trung Cộng- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự
đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Cộng vốn sẵn
có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che
giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản
mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Cho
đến nay thực trạng Trung Cộng đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của
một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế
không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Cộng.
Kinh tế Trung
Cộng hết thuốc chữa
Hãy
nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Cộng đã gây kinh ngạc
cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống
8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Cộng dĩ
nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Cộng đã
tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các
cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Cộng đầu tư vào mọi quốc gia, từ
Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung
Cộng tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Cộng sẽ qua mặt Mỹ trong một
tương lai gần.
Nhưng
rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of
China (Sự sụp đổ sắp tới của Trung Cộng) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè
đã tóm lược cho tôi cuốn sách này; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản
đã được nói ở đầu bài này nghĩa là lý luận về Trung Cộng như một quốc gia. Dần
dần quan điểm của các quan sát viên về Trung Cộng thay đổi hẳn. Mới đầu người
ta tự hỏi liệu Trung Cộng có thể lâm vào khủng hoảng không? Rồi Trung Cộng sẽ
lâm vào khủng hoảng lúc nào? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là Trung Cộng sẽ còn che
đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Cộng sẽ ra
sao?
Tất
cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của Trung Cộng được ước lượng bởi
mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một
cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì
không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong
xã hội Trung Cộng. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước
lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho các công ty
nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa
phương không khai đúng số nợ.
Kinh
tế Trung Cộng dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng
hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua, ngoại thương Trung Cộng đã sụt 11% (xuất
khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn
là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể
tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ?
Công
ty tham vấn Lombard Street Research của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính
quyền Trung Cộng nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng
trưởng của Trung Cộng năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng
khiêm tốn này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các
công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản
xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v.
Một
chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm
2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Cộng lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là
cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế
giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục
hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức
2007, nhưng chỉ số SSE của Trung Cộng vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.
Lòng
tin vào tương lai của kinh tế Trung Cộng còn thể hiện qua một con số khác. Kết
quả của một cuộc thăm dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được
học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại
gia Trung Cộng đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Cộng
đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ
đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Cộng giầu có sang Mỹ sinh đẻ để
con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai Trung Cộng tươi sáng tại sao những người
được ưu đãi nhất lại bỏ đi?
Trong
mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài các doanh nhân Trung Cộng không còn
giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ
nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.
Nhưng
kế hoạch nào? Từ năm 2008 trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi
cuộc khủng hoảng thì Trung Cộng đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như
không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí
công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số
nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành
phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì
càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp.
Năm
2013 khi mới lên cầm quyền, Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ
bằng cách tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ
biện pháp này -đúng trên nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không
những thế, chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân
hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Cộng không có thuốc chữa,
sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay
cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013
nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ
chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.
Một
sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung Cộng không cứu vãn được. Giải pháp tự
nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị
trường nội địa. Đó là điều Trung Cộng đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung
Cộng nguy ngập hơn. Từ năm 2010, Trung Cộng đã liên tục tăng lương công nhân
10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa
không hề gia tăng vì người công nhân Trung Cộng chỉ dùng khoản lợi tức mới có
để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này
đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa Trung Cộng khó bán trên các
thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung
Cộng hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.
Chừng
nào kinh tế Trung Cộng sẽ thực sự sụp đổ? Câu trả lời là: khi chính quyền Bắc
Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung
Cộng "có sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Cộng vẫn còn khoảng
2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu.
Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Cộng -ít nhất
30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Cộng vẫn còn giầu có vì vẫn
còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này.
Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy
sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.
Đất
nước Trung Cộng đang bị hủy diệt
Nhưng
kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn nhất của Trung Cộng. Mối nguy lớn
nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn
thở được nữa; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.
Một
nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do
Thái), Bắc Kinh (Trung Cộng) và Thanh Hoa (Trung Cộng) công bố tháng 7-2013
tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người
dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi
trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên
báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Cộng, một nghiên cứu
theo đó gần một nửa số sông của Trung Cộng đã hết nước.
Tháng
3/2013, một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và
Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác
một cách đáng sợ : Trung Cộng chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã
biến mất. Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km
vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi
nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố
hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì
gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích
dân chúng tiết kiệm nước.
Tình
trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên,
phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi
trường. Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung
Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí
lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa
cộng sản.
Vài
năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái
tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Cộng sang
Myanmar .
Lý do khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày
nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành
nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây
rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một
cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của Myanmar .
Năm
2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình
vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy
không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn
nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ.
Bầu
trời Hoa Bắc
Năm
2000 lượng nước trung bình của mỗi người Trung Cộng chỉ bằng 15% mức trung bình
thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước
đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống
100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu
quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí
và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để
nói. Đất nước Trung Cộng đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều
người muốn rời Trung Cộng bằng mọi giá. Họ sợ chết.
Một
chế độ tuyệt vọng
Mối
nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế,
là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dõi tình hình Trung Cộng đều đồng ý
rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung
quyền hành về trung ương và về tay ông.
Tham
nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông
có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD? Không khác gì thủ tướng Ôn
Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra
rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy
Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa
Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên
cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.
Các
tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải
và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn
nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ;
trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng
một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.
Cần
nhắc lại để nhấn mạnh rằng, Trung Cộng là một thiên hạ chứ không phải là một
nước, lòng yêu nước đối với một người Trung Cộng chủ yếu là một tình cảm địa
phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng
một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc
Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Cộng còn lỏng lẻo
hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù hận
chưa được hóa giải của quá khứ.
Trong
suốt dòng lịch sử dài của nó, sự thống nhất của Trung Cộng đã chỉ được duy trì
bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly
khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây, Vân Nam
và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Cộng hầu như
không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn
Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên,
Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là
những ách thống trị ngoại bang.
Bế
tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Cộng cũng đã chứng tỏ không có lối
thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền
con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự nhưng
trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính
sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương
rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung
Cộng và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế
một Trung Cộng tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980.
Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã
tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối
làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Nhưng
việc phải làm đó là gì? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến
bộ về giao thông và truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Cộng.
Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Cộng thêm
sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và
ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó.
Nhưng
vấn đề là Trung Cộng không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một
chế độ dân chủ vì các vùng của Trung Cộng quá khác nhau và cũng không muốn chia
sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các
vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang Web
www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng
11/2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung
Cộng. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.
Lịch
sử Trung Cộng nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa
thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính.
Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan
hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần
dần hồi sinh ; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính
quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục
phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị; kết quả là quyền
lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng
khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy kiệt; và kịch bản bắt đầu lại
từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản. Tập Cận
Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới.
Khi
Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những
tổ chức đối lập", ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.
Phải
lo ngại cái gì? Chế độ cộng sản Trung Cộng còn trụ được bao lâu nữa?
Như
đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng Trung Cộng không phải là một quốc gia
mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay
đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách
tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế
quốc nói chung và của Trung Cộng nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên
chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể
nhanh hơn rất nhiều.
Càng
nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ cộng sản Trung Cộng tồn tại từ sau cuộc
thảm sát Thiên An Môn dựa trên hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.
Hợp
đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi
trường, với điều kiện là Đảng Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế
cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng
trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì
kinh tế suy thoái.
Hợp
đồng thứ hai là quần chúng Trung Cộng chịu đựng bất công xã hội để cho một
thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng
đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ
ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.
Có
cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của Trung
Cộng không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây
hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên
trong. Nhiều người đang lo âu trước việc Trung Cộng xây những phi trường trên
những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do
cách nhìn Trung Cộng như một quốc gia thay vì một đế quốc.
Thực
tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại
rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức
đương đầu với những khó khăn bên trong. Trung Cộng cũng không phải là ngoại lệ.
Trong những lúc suy vi, các hoàng đế Trung Cộng không những không xâm chiếm các
biên quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho
các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là
một trong rất nhiều thí dụ. Việt Nam và thế giới sẽ không phải lo
ngại một sự gây hấn nào.
Cũng
không cần lo ngại cho người Trung Cộng. Trung Cộng có phân chia thành bốn hay
năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu
hơn và hợp lý hơn Trung Cộng hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung
Cộng là những thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.
Thiên
triều sụp đổ
Câu
hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Cộng sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một
cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt Nam . Đối với một chư hầu, một đế
quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa.
Đối
với Đảng Cộng Sản Việt Nam ,
chế độ cộng sản Trung Cộng coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó
khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam . Bắc Kinh
lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều
Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế
độ cộng sản Việt Nam
lại rất cần bám lấy Trung Cộng.
Trong
cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã
không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, theo đó Trung Cộng
thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng
sản Việt Nam rất cần yểm trợ
tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt Nam thực ra
đang ở trong tình trạng phá sản.
Theo
phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11/2014 tại quốc hội thì tình
trạng kinh tế Việt Nam
"rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD
năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại
không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.
Một
điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng tự
lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ
của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô
hoặc Trung Cộng, hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Cộng. Giữa thập niên 1980 khi Liên
Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù
địch để xin được phục tùng Trung Cộng. Trái với một nhận định hời hợt không
phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để
được lệ thuộc Trung Cộng. Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh
lên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga.
Văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam
là một văn hóa chư hầu.
Tất
cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của
Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine . Đến lượt Trung Cộng cũng
chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy
tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có
thể giải thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng
sản Việt Nam
gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến
thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.
Lịch
sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều phải
sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban
bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và
quyền lợi, nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Cộng để
duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý
rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều
đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào cả.
Nhưng
bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được
hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Cộng được nữa. Chiến lược của
họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm
thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá
nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận
nào cả.
Mọi
ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ
một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng
ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.
Nguyễn
Gia Kiểng
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.