Trước
khi đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng đi thăm Trung Cộng trước. Điều đó đã thành lệ. Cái
lệ ấy cho thấy một chính sách của Việt Nam hiện nay: đu dây giữa Trung
Cộng và Mỹ; với Trung Cộng, người ta chủ trương vừa hợp tác vừa đấu tranh; với
Mỹ, người ta cũng áp dụng chiến thuật tương tự, vừa phê phán vừa làm hoà.
Trong
quá khứ, suốt thời chiến tranh Nam - Bắc, chính quyền Miền Bắc đã từng áp dụng
chính sách ngoại giao đu dây như thế giữa Liên Xô và Trung Cộng. Tuy cả hai đều
theo chủ nghĩa xã hội, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Cộng đầy những hục hặc và
căng thẳng, ai cũng có lập trường và tham vọng riêng. Miền Bắc ở giữa, chiều
bên này chút, chiều bên kia chút; cả hai đều thoả mãn và ra sức viện trợ miền
Bắc cho đến khi cuộc nội chiến kết thúc. Nhiều người cho chính sách ngoại giao
ấy là khôn khéo và được thực hiện một cách tài tình.
Thật
ra, cuộc đu dây ấy không quá khó. Lúc ấy, Liên Xô và Trung Cộng tuy bất hoà
nhưng cả hai đều có một lý tưởng chung: chủ nghĩa xã hội; một kẻ thù chung: Mỹ,
và một mục tiêu chung: chống lại Mỹ. Việt Nam được xem là điểm nóng của cuộc
chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và khối xã hội chủ nghĩa. Không phải ngẫu
nhiên mà giới lãnh đạo Hà Nội thời ấy tuyên bố: “Chúng ta chống Mỹ là chống cho
cả Liên Xô và Trung Cộng”. Đến khi Trung Cộng bắt tay với Mỹ và đặc biệt đến
khi Miền Bắc chiếm được Miền Nam, trận đối đầu giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội trên lãnh thổ Việt Nam kết thúc, chiến lược đu dây của Hà Nội trở
thành vô hiệu, Việt Nam bắt buộc phải chọn lựa một trong hai, và họ đã chọn
Liên Xô. Việc chọn lựa ấy biến Việt Nam trở thành kẻ thù của Trung Cộng và hậu
quả là Trung Cộng giúp đỡ Pol Pot chống lại Việt Nam; đến lúc Pol Pot thất bại,
Trung Cộng trực tiếp tấn công Việt Nam.
Liệu
bây giờ một chính sách đu dây như vậy có thể thành công như trước?
Tôi
nghĩ là không.
Với
Việt Nam
trước 1975, cả Liên Xô lẫn Trung Cộng đều là đồng minh. Đu dây giữa hai đồng
minh, dù hai đồng minh ấy có mâu thuẫn với nhau, dù sao cũng dễ hơn là đu đây
giữa một kẻ thù và một người có khả năng là đồng minh.
Giới
lãnh đạo Việt Nam có thể xem Trung Cộng không hay chưa phải là kẻ thù nhưng Trung
Cộng thì chắc chắn xem Việt Nam là kẻ thù nếu Việt Nam ngăn cản chính sách
ngoại giao “Một vành đai và một con đường” (One belt and one road) của họ.
“Vành đai” hay còn gọi là con đường tơ lụa về kinh tế trên bộ (Silk Road
Economic Belt) bắt đầu từ vùng Tây bắc Trung Cộng kéo dài qua Unrumqi đến Trung
Á, băng qua phía bắc Iran rồi chuyển hướng sang phía tây qua Iraq, Syria và Thổ
Nhĩ Kỳ; từ Istanbul, nó vượt qua eo biển Bosphorus đến châu Âu, bao gồm Đức và
Hà Lan rồi kết thúc ở Venice, Ý. “Con đường” hay còn gọi là con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21 (21st Century Maritime Silk Road) bắt đầu từ phía nam Trung
Cộng, băng qua Biển Đông đến eo biển Malacca tới các quốc gia như Ấn Độ và
Kenya và chuyển sang hướng bắc vào Hồng Hải và Địa Trung Hải qua vùng Horn of
Africa và cuối cùng gặp con đường tơ lụa về kinh tế trên bộ ở Venice.
Để
thực hiện chiến lược một vành đai và một con đường ấy, Trung Cộng cố gắng vận động
sự hợp tác của các quốc gia liên hệ. Tuy nhiên chặng đầu tiên của con đường tơ
lụa trên biển, tức Biển Đông, thì Trung Cộng chủ trương chiếm đoạt. Họ nhiều
lần tuyên bố thẳng thừng điều đó: đó là “sân nhà” của họ, là “quyền lợi cốt
lõi” của họ. Nói cách khác, không còn gì nghi ngờ nữa cả, bằng mọi cách Trung
Cộng phải giành quyền làm bá chủ Biển Đông, tức chiếm khoảng hơn 80% lãnh hải
của Việt Nam.
Chiến
lược của họ là giành từ từ, từ từ, kiểu cắt lát salami (salami-slicing
strategy) hay nói theo tiếng Việt là tằm ăn dâu, trước hết là giành đảo, sau đó
là tái tạo đảo, biến đảo hoang hoặc bãi đá thành nơi có thể sinh sống hoặc có
thể đặt căn cứ quân sự – như điều họ đang làm hiện nay, từ đó, hợp thức hoá con
đường lưỡi bò họ đã tuyên bố, cuối cùng, thành lập vùng nhận diện hàng không
tương ứng với con đường lưỡi bò ấy. Điều nguy hiểm của chiến lược tằm ăn dâu
này là nó có thể chiến thắng một cách mặc nhiên, nghĩa là, chỉ cần các quốc gia
liên hệ, từ Việt Nam đến Malaysia, Philippines, Brunei và Đài Loan, không làm
gì cả. Trong trường hợp này, bất động hoặc chỉ lên án suông, là thất bại. Là
mất trắng cả vùng biển lẫn vùng trời.
Dĩ
nhiên Mỹ không thể khoanh tay nhìn Trung Cộng cưỡng chiếm Biển Đông một cách dễ
dàng như vậy. Biển Đông, với Mỹ, có ý nghĩa chiến lược lớn về cả kinh tế lẫn
quân sự và chính trị. Đó là một trong vài con đường hàng hải tấp nập và quan
trọng nhất trên thế giới. Hơn nữa, chiếm Biển Đông, Trung Cộng có thể uy hiếp
các quốc gia Đông Nam Á, làm chính sách tái cân bằng châu Á (rebalance to Asia)
của Mỹ bị phá sản.
Nếu
Trung Cộng có thể chiến thắng trên Biển Đông chỉ với điều kiện các nước liên hệ
không làm gì cả, điều Mỹ quan tâm nhất chính là sự bất động của các nước ấy.
Bởi vậy, với họ, chính sách đu đây của các nước, đặc biệt Việt Nam , là một
điều không thể chấp nhận được.
Nói
cách khác, với Trung Cộng, đến một lúc nào đó, Việt Nam cần một thái độ dứt
khoát để khỏi mất Biển Đông một cách mặc nhiên; và với Mỹ, Việt Nam cũng cần có
một thái độ rõ ràng để có thể hình thành một liên minh bảo vệ chủ quyền trên
Biển Đông.
Một
chính sách đu dây, do đó, chỉ có tính nhất thời. Không thể kéo dài mãi được.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.