Lãnh đạo Đảng và nhà
nước Việt Nam 'kỷ niệm' 40 năm 'Đại thắng mùa Xuân', 'Giải phóng hoàn toàn Miền
Nam' ở TP. Hồ Chí Minh hôm 30/4/2015.
Viết và phát biểu
nhân dịp Việt Nam kỷ niệm 40 năm ‘Ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước’
cả Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Thủ tướng Việt Nam ca ngợi ‘sự lãnh đạo đúng đắn’,
‘tài tình’, ‘sáng suốt’ của Đảng Cộng sản trong ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước’.
‘Dưới sự lãnh đạo’
đó của họ, ‘quân và dân cả nước’ đã ‘đánh cho Mỹ cút’, ‘đánh cho Ngụy nhào’,
giành ‘Đại thắng mùa Xuân năm 1975’, ‘mở ra một kỷ nguyên mới’ cho Việt Nam.
‘Kỷ nguyên mới’ theo
ông Nguyễn Phú Trọng – trong một bài viết được báo chí chính thống đồng loạt
đăng hôm 23/4 – là ‘kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội’.
Còn diễn văn của ông
Nguyễn Tấn Dũng ngày 30/4 còn thêm ‘kỷ nguyên mới’ ấy là kỷ nguyên … cùng nhau
xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh’.
Chắc có không ít người
đặt câu hỏi khi đọc, nghe bài viết và diễn văn của hai lãnh đạo cao cấp này của
Việt Nam.
Một trong những câu
hỏi đó là có phải mọi đường lối của Đảng Cộng sản – trước kia là Đảng Lao Động
– trong ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ là ‘đúng đắn’, ‘tài tình’, ‘sáng
suốt’ hay ‘sáng tạo’ và ‘kỷ nguyên mới’ mà Việt Nam bước vào sau năm 1975 có thực
sự tốt đẹp như họ mô tả?
‘Đúng đắn’ thời 'chống
Mỹ’?
Ông Nguyễn Tấn Dũng
sử dụng những từ ngữ 'rất cứng rắn, nặng nề và đầy thù hận' khi nói về cuộc chiến
Việt Nam trong diễn văn hôm 30/4/2015, theo tác giả.
Những nghiên cứu mới
về ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ do những người Cộng sản lãnh đạo cũng
làm nhiều người đặt nghi vấn về sự ‘đúng đắn, tài tình, sáng tạo’ của họ trong
cuộc chiến này.
Chẳng hạn, cuốn
‘Hanoi's War’, tạm dịch là ‘Cuộc chiến của Hà Nội’ – xuất bản năm 2012 của Tiến
sỹ Nguyễn Liên Hằng, một người Mỹ gốc Việt và hiện là phó giáo sư, khoa Lịch sử
tại Đại học Kentucky – tiết lộ rằng chính ông Lê Duẩn và các thành phần cứng rắn,
bảo thủ trong Đảng Cộng sản đã phát động chiến tranh vũ trang để ‘giải phóng miền
Nam’ và đây cũng là một lý do dẫn đến việc Mỹ quyết định đưa quân vào Miền Nam.
Tác giả còn chỉ ra rằng
để theo đuổi và đạt được mục đích của mình, Lê Duẩn và phe cánh của ông đã thiết
lập một ‘nhà nước công an trị’ và tìm mọi cách, thủ đoạn để cô lập, loại bỏ những
ai chống đối đường lối của họ.
Theo bà, vì chủ
trương ‘thống nhất miền Nam bằng bạo lực’ dù cuối cùng họ thắng, người dân Việt
Nam – trong đó có rất nhiều lính miền Bắc – phải trả một cái giá quá đắt cho
chiến thắng ấy.
Vì vậy, bà cho rằng
có thể Việt Nam đã không phải đối diện một cuộc chiến như thế – hay ít ra chiến
tranh có thể kết thúc sớm hơn, ít đổ máu hơn, ít mất mát hơn – nếu những người
có đường lối ôn hòa nắm quyền ở Hà Nội.
Gần đây, một số người
khác cũng cho rằng, nếu thay vì chủ trương bạo lực cách mạng để thống nhất đất
nước, giới lãnh đạo Việt Nam biết dùng các biện pháp hòa bình, như đàm phán, Việt
Nam có thể thống nhất mà không phải trải qua một cuộc chiến đầy đau thương như
vậy.
‘Kỷ nguyên mới’ tốt
đẹp?
Còn ‘kỷ nguyên mới’
mà Việt Nam bước vào sau ‘Đại thắng Mùa Xuân năm 1975’ có thực sự tốt đẹp?
Nhiều dẫn chứng, số
liệu cho thấy trong 40 năm qua, đặc biệt là trong thập niên đầu sau ‘giải phóng
miền Nam’ khi ‘cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa’, dân không giàu, nước chẳng mạnh
và xã hội cũng không ‘dân chủ, công bằng, văn minh’ như lãnh đạo Việt Nam nói.
Chẳng hạn, sau năm
1975, thay vì được đối xử ‘văn minh’, hàng chục ngàn sỹ quan, binh lính, quan
chức, nhân viên của chế độ cũ bị đưa vào các trại tù, trại cải tạo.
Những năm sau khi Việt
Nam bước vào ‘kỷ nguyên mới’ cũng là lúc thế giới chứng kiến làn sóng người Việt
tị nạn. Ước tính từ năm 1975 đến những năm đầu thập niên 1990, có đến gần hai
triệu người Việt bỏ nước ra đi.
Họ liều chết vượt biển
tìm tự do, no ấm ở một nước xa xôi nào đó vì họ không có được những điều đó
ngay chính trên đất nước của mình. Nếu được sống trong một quốc gia mà ở đó
‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’, ai lại muốn bỏ Tổ quốc ra
đi như vậy?
Ai cũng biết – thậm
chí những người Cộng sản cũng hiểu rõ, dù có thể họ không dám công khai thừa nhận
– mô hình kinh tế ‘xã hội chủ nghĩa’ mà họ tiến hành sau 1975 đã hoàn toàn thất
bại. Chính những thất bại, sai lầm đó đã buộc họ phải cải cách kinh tế từ năm
1986.
Phần vì hà khắc về
chính trị, sai lầm về kinh tế và phần vì sự can thiệp quân sự của Việt Nam vào
Campuchia năm 1978, hình ảnh, vị thế quốc tế của Việt Nam trong thập niên đầu
sau ‘Đại thắng mùa Xuân năm 1975’ cũng chẳng tốt đẹp, vẻ vang gì.
Mỹ và các nước
phương Tây khác cấm vận Việt Nam. Nhiều quốc gia, trong đó có các nước ASEAN,
cũng tìm cách cô lập Hà Nội.
Ngay cả Trung Quốc,
một đồng minh thân cận của Hà Nội trong ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ’ cũng tiến
hành một cuộc chiến biên giới tuy ngắn nhưng rất khốc liệt với Việt Nam vào năm
1979 – một cuộc chiến mà hiện giờ chính quyền Việt Nam đang cố quên. Chín năm
sau, cũng chính người ‘đồng chí’ này đã đánh chiếm một số đảo, bãi đá trong đó
có Gạc Ma, ở quần đảo Trường sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Cuộc chiến Việt Nam
sau 40 năm dường như vẫn còn nhiều khác biệt trong con mắt và nhận thức của nhiều
người VN trong nước hay hải ngoại.
Có thể nói, 10 hay
15 năm sau khi ‘giải phóng miền Nam’, chính quyền Việt Nam mắc nhiều sai lầm, gặp
nhiều thất bại trên nhiều phương diện, cả về đối nội và đối ngoại.
Với việc tiến hành đổi
mới từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, đặc biệt về
mặt kinh tế.
Tuy vậy, dù ‘đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử’ – như ông Nguyễn Tấn Dũng đề cập
trong diễn văn của mình – Việt Nam vẫn chỉ là một quốc gia ‘đang phát triển có
thu nhập trung bình’.
Cách đây hơn một
tháng chính ông Dũng cũng phải thừa nhận rằng, hiện tại Việt Nam đứng chót
trong nhóm ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và
Singapore), ‘thậm chí có lĩnh vực còn thấp hơn Lào, Campuchia, Myanmar’ – ba nước
được coi là kém phát triển nhất trong khối.
Một trong những lĩnh
vực mà Việt Nam xếp sau ba quốc gia đó là tự do báo chí. Chẳng hạn, năm 2015, tổ
chức Phóng viên không biên giới xếp Việt Nam thứ 175 trên 180 các quốc gia,
lãnh thổ - đứng sau Lào (171), Myanmar (144) và Campuchia (139).
Nhắc lại một vài tụt
hậu của Việt Nam so với các nước khu vực – những sự thua kém mà ông chính Dũng
nói là ‘làm sao mà đất nước mình, dân tộc mình chấp nhận được’ – để thấy rằng
sau 40 năm ‘đi lên chủ nghĩa xã hội’, Việt Nam vẫn chưa thực sự tự do, giàu có
gì.
Trong bốn thập niên
đầu của ‘kỷ nguyên mới’ Việt Nam mới chỉ ‘thoát khỏi tình trạng kém phát triển’.
Trong khi ấy cũng với khoảng thời gian tương tự, từ một nước nghèo, kém phát
triển, lại thiếu tài nguyên, Singapore đã trở thành một quốc gia giàu có, phát
triển.
Chưa có chuyện hòa
giải
Trước dịp kỷ niệm
Ngày 30/4 năm nay, đâu đó có người hy vọng chính quyền Việt Nam sẽ tỏ chút thiện
chí, giúp hàn gắn quá khứ, hòa giải dân tộc. Nhưng diễn văn của ông Dũng và đặc
biệt bài viết của ông Trọng cho thấy đó vẫn là chuyện xa vời.
Cả hai ông vẫn coi
Việt Nam Cộng hòa là ‘ngụy’. Ông Trọng còn mô tả ‘chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm … lê máy chém đi khắp miền Nam, thẳng tay đàn áp các chiến sĩ cách mạng và
quần chúng nhân dân’.
Đến giờ giới lãnh đạo
Việt Nam vẫn còn có những suy nghĩ, lời lẽ như ông Trọng diễn tả, thì không có
gì ngạc nhiên về chuyện những người thuộc chế độ cũ bị tù giam, phải đi cải tạo
sau năm 1975.
Lý do chính mà giới
lãnh đạo Việt Nam vẫn coi Việt Nam Cộng hòa là ‘ngụy’, là ‘tay sai’ và ‘lê máy
chém đi khắp miền Nam’ như vậy là nhằm đề công lao, ‘chính nghĩa’ của mình
trong ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’.
Và cũng vì muốn tô đậm
hào quang quá khứ nhằm tăng tính chính danh cho mình, họ đã không ngần ngại kể
‘biết bao tội ác dã man’ của Đế quốc Mỹ, trong khi đó hết lòng biết ơn ‘sự giúp
đỡ chí tình chí nghĩa của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc’.
Có điều, Liên Xô thì
nay đã tan rã; ‘đồng chí tốt’ Trung Quốc thì đã và đang tìm mọi cách lấn chiếm
biển đảo của Việt Nam và vì những động thái bành trướng ấy của Bắc Kinh, chính
quyền Việt Nam đang tìm cách gần gũi với Mỹ.
Tác giả cho rằng tư
duy của các lãnh đạo Việt Nam tỏ ra không hề mới, nếu như không nói là 'bảo thủ'
khi thể hiện ra trong dịp đánh dấu 40 năm ngày 30/4.
Trớ trêu hơn, các
phái đoàn của ‘các nước xã hội chủ nghĩa’ và ‘nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới’
tới tham dự ngày kỷ niệm 40 năm ‘Ngày Đại thắng’ – một thắng lợi ‘làm nức lòng
bè bạn gần xa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới’ năm nào – chỉ có
vài ba nước ‘cộng sản’ nghèo đói, lạc hậu còn lại như Cuba, Campuchia và Lào.
Trong diễn văn của
mình, ông Dũng nói ‘với truyền thống hòa hiếu’ Việt Nam ‘nhất quán thực hiện chủ
trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai’. Nhưng với những ngôn từ rất cứng
rắn, nặng nề - nếu không muốn nói là đầy thù hận - ông và đặc biệt ông Trọng
dùng khi nói về ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’, giới lãnh đạo Việt Nam
không chỉ không ‘khép lại quá khứ’ mà còn làm những vết thương quá khứ thêm rỉ
máu.
Đọc những bài viết,
nghe những diễn văn như thế này, ít hay nhiều có thể hiểu được tại sao cố Thủ
tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt lại được nhiều người quý mến, kính trọng và trân trọng
nhắc đến nhiều trong những ngày qua.
Chừng nào Việt Nam vẫn
chưa có những lãnh đạo biết cảm thông, hiểu được nỗi đau của người khác, có được
những cảm nhận và dám công khai bày tỏ những điều đó như ông Kiệt, chừng đó quá
khứ đau thương của đất nước vẫn chưa được hoàn toàn khép lại.
Và có thể nói Việt
Nam chỉ thực sự hòa hợp, hòa giải và giàu mạnh, tự do, chỉ khi nào có những
lãnh đạo – thay vì cứ nhắc mãi ‘hào quang quá khứ’, sáng tối ‘giáo điều’ hay giữ
lòng thù hận – biết lắng nghe, cởi mở, bao dung và thức thời như ông.
TS. Đoàn Xuân Lộc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.