Ảnh cưới của Lý Thị
Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Cộng.
Hôn nhân đổi chác giữa
các cô gái Việt với đàn ông nước ngoài không phải là hiếm, nhưng câu chuyện gửi
tới các bạn hôm nay sẽ phơi bày sự thật đau lòng về thảm trạng buôn người mà nạn
nhân là các bé gái ở những vùng biên giới của Việt Nam đang hàng ngày bị bắt
cóc bán cho những người đàn ông nông thôn ở Trung Cộng mua về làm vợ.
Đó là nghịch cảnh của 3 chị em Lý Thị Sua, Lý Thị Minh, và Lý Thị Sinh cùng bị bắt cóc và bị bán sang Trung Cộng vào năm 2011 lúc Sua mới lên 13, Minh tròn 14, và Sinh bước vào tuổi 20. Hai người em là Sua và Minh đã tìm cách thoát về Việt Nam, còn cô chị hiện chưa biết tung tích ở đâu, sống chết thế nào.
Đó là nghịch cảnh của 3 chị em Lý Thị Sua, Lý Thị Minh, và Lý Thị Sinh cùng bị bắt cóc và bị bán sang Trung Cộng vào năm 2011 lúc Sua mới lên 13, Minh tròn 14, và Sinh bước vào tuổi 20. Hai người em là Sua và Minh đã tìm cách thoát về Việt Nam, còn cô chị hiện chưa biết tung tích ở đâu, sống chết thế nào.
Những phụ nữ người Việt
bị bắt cóc và bị bán làm cô dâu.
Cuộc trò chuyện giữa
chúng tôi với Minh, cô gái dân tộc Hmong không nói được tiếng Kinh, bị gián đoạn
rất nhiều lần vì nỗi sợ hãi, lo lắng, và những chấn động tâm lý chưa nguôi
ngoai sau khi cô vượt thoát người chồng Trung Cộng trở về Việt Nam với gia đình
ở xóm Khuổi Vin, xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) hôm 22/7 vừa qua.
Minh vẫn còn nhớ như
in cái ngày định mệnh đã rẽ ngoặc cuộc đời cô, thay đổi tương lai của cô bé tuổi
cài trâm bị bán, bị ép làm vợ một người đàn ông quê mùa, ít học ở xứ lạ quê người.
Không có ngày ấy thì giờ đây Minh lẽ ra đang là một thiếu nữ bước vào tuổi 18 đầy
hoa mộng và hứa hẹn. Nhưng sau 4 năm bị bán sang Trung Cộng, Minh giờ đây là một
bà mẹ trẻ đã bỏ lại đứa con thơ chưa dứt sữa để chạy trốn khỏi người chồng Trung
Cộng.
Cô dâu 14 tuổi
Chuyện xảy ra ngày
28 tháng 4 năm 2011, khi chị em Minh được 3 thanh niên mới quen, trạc
ngoài đôi mươi, người dân tộc Nùng, rủ đi lễ hội ở chợ Khâu Vai, huyện Mèo Vạc,
tỉnh Hà Giang. Trong số này có một người tên là Lò Văn Hiền, trú ở xã Đức Hạnh,
cùng huyện Bảo Lâm với 3 nạn nhân. Sau khi mời các cô ăn uống dọc đường, thay
vì đi Hà Giang như hứa hẹn, nhóm thanh niên đã chở thẳng 3 chị em qua Trung Cộng
sang tay cho một đường dây buôn người chuyên săn tìm các cô gái Việt bán cho những
người đàn ông Trung Cộng không đủ khả năng lấy vợ bản xứ.
Qua lời thông dịch của
anh trai, cô Minh thuật lại:
“Sau khi Hiền cùng đồng
bọn đưa 3 chị em chúng tôi tới đường biên giới Việt Nam-Trung Cộng, họ cho
chúng tôi xuống xe và tát chúng tôi mỗi người một cái. Lúc đó, chúng tôi mới tỉnh
vì trước đó họ có cho chúng tôi uống nước và có thể có chứa chất gây kích thích
tâm lý. Họ đòi điện thoại của chúng tôi. Hiền và đồng bọn đã đánh 3 chị em tôi,
đưa dao kề cổ khống chế và dọa giết nếu chúng tôi bỏ chạy. Sau đó, họ đưa chúng
tôi vào nhà một người Hmong ở Trung Cộng cách đường biên giới Việt Nam khoảng 7
giờ đồng hồ. Trong nhà này có một người đàn ông khoảng 45-50 tuổi chuyên mua
bán phụ nữ từ Việt Nam sang Trung Cộng. Họ cho người canh gác 3 chị em tôi rất
nghiêm ngặt. Sáng hôm sau, họ bán chị Sinh và Sua đi trước. Hiền và đồng bọn
thì về Việt Nam. Khi tôi van xin được nhìn 2 chị em của tôi lần cuối thì ông chủ
nhà đưa cho xem một khẩu súng ngắn và nói ‘Chúng tao sẽ dùng khẩu súng này đi
đón 2 chị mày.’ Một ngày sau, có một cặp vợ chồng tới đón tôi chở thẳng tới tỉnh
Sơn Tây của Trung Cộng. Vợ là người Hmong Việt Nam.”
Minh không rõ tên của
người đàn ông Trung Cộng tới đón cô đi bán, nhưng người đàn bà Hmong Việt Nam
đi cùng, theo cô được biết, tên là Thào Thị Tráng, một tay buôn người chuyên
nghiệp thường xuyên cung cấp gái cho những người Trung Cộng muốn lấy vợ Việt Nam.
Minh nói lúc đó cô đã nhìn thấy bà Tráng bán 3 cô gái Việt khác, trong đó có một
người tên là Mị từ huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
Tới Sơn Tây, bà
Tráng đưa hình 3 người đàn ông Trung Cộng cho Minh xem và bảo cô phải lấy một
trong ba người này làm chồng, nếu không, sẽ bị mang đi bán xa hơn nữa. Không thể
chống cự, cuối cùng Minh phải nhận lời làm vợ một người trong ảnh tên là Pay
Long Phe, lớn hơn cô 20 tuổi.
Sau cuộc ngã giá,
Minh bị bán cho ông Pay, một thợ hồ ngụ tại số 18 đường Bắc, thôn Hà Khẩu, xã
Cao Hồng Khẩu, huyện Ngũ Đài. Đây là một vùng quê nghèo, hẻo lánh thuộc tỉnh
Sơn Tây có đa phần dân cư là thành phần lao động chân tay, làm thuê làm mướn kiếm
sống qua ngày.
Mẹ và em trai ông
Pay, qua điện đàm với chúng tôi, dường như hơi bất thường, nói năng không được
minh mẫn và mạch lạc. Sau rất nhiều cuộc gọi, khó khăn lắm chúng tôi mới gặp được
ông Pay.
Đàn ông Trung Cộng khó lấy vợ ở quê nhà do chi phí đắt đỏ
Người đàn ông này thừa
nhận đã mua cô Minh với giá trên 60.000 nhân dân tệ, khoảng 130 triệu đồng Việt Nam, nhưng ông từ chối
tiết lộ bất kỳ thông tin nào về kẻ môi giới. Ông nói ông không biết gì về người
này và chưa từng gặp mặt trực tiếp. Ông Pay Long Phe kể:
“Một trong những bà
con trong gia đình tôi giới thiệu tôi với người môi giới này vì anh ấy cũng lấy
vợ Việt Nam thông qua đường môi giới này.”
Khi được hỏi cuộc
mua bán diễn ra thế nào, ông Pay nói tới giờ hẹn, một người nào đó không phải
là chủ môi giới đã thả cô Minh vào làng rồi gọi ông ra nhận. Chúng tôi thắc mắc
vì sao ông không lấy vợ bản xứ mà đi mua vợ từ Việt Nam, người thợ hồ Trung Cộng
không ngần ngại giải thích:
“Tôi nghe nói vợ Việt
Nam rất dễ dạy, ngoan hiền, lại siêng năng làm lụng.”
Về số tiền khá lớn
ông đã bỏ ra, ông Pay nói đó là giá trung bình phải chi để cưới vợ ở đây, nhưng
cưới vợ Trung Cộng còn tốn hơn nhiều vì những đòi hỏi về tiền bạc, nhà cửa, và
sính lễ vượt quá khả năng giới lao động như ông.
Kế hoạch vượt thoát
Bà Thào Thị Tráng mặc
áo phông đỏ đứng thứ 2 từ phải qua. Bà Thào là một tay buôn người chuyên nghiệp
thường xuyên cung cấp gái cho những người Trung Cộng muốn lấy vợ Việt Nam
Minh cho biết sau
khi bị ông Pay mua về, cô dâu bất đắc dĩ phải chung sống với gia đình chồng gồm
8 người. Hằng ngày cô phải đi làm mướn phụ tiền chi tiêu, nhưng bị gia đình chồng
canh chừng rất nghiêm ngặt, tới điện thoại cô cũng không được dùng.
Ở tuổi 14, Minh đã
phải chịu đựng biết bao tủi khổ trong cuộc hôn nhân cưỡng ép hơn 4 năm trời mà
không một lần dám bỏ trốn vì cô được nghe kể có một trường hợp tương tự sau 2 lần
vượt thoát bất thành bị bắt lại, bị đánh đập rất dã man. Minh chia sẻ:
“Mỗi lúc cãi nhau,
ông chồng đều nhắc tới chuyện mua tôi và nói rằng nếu không nghe lời thì sẽ
mang bán tôi đi một nơi thật xa nữa.”
Bản thân không rành
ngôn ngữ bản địa, lại bị đưa đi quá xa, có tìm đường chạy về thì chắc gì đã
thành công mà rủi bị bắt lại thì khó sống. Nghĩ vậy nên Minh đành khoanh tay chấp
nhận số phận.
Mãi đến tháng 3 năm
nay, lần đầu tiên Minh nhờ được một phụ nữ Hmong từ Hà Giang sang Sơn Tây làm vợ
người Trung Cộng giúp thông tin với cha mẹ ruột ở Việt Nam. Từ ngày nối liên lạc
được với gia đình, Minh nung nấu quyết tâm trở về.
Biết ý muốn của ông
Pay bỏ tiền mua vợ chủ yếu kiếm một đứa con, Minh nghĩ chỉ có cách sinh con mới
có thể được gia đình chồng tin yêu và có thể thuyết phục họ cho cô về Việt Nam
thăm gia đình. Vì vậy, Minh đã cố gắng ‘ngoan ngoãn’ và sinh cho ông Pay một đứa
con.
Kế hoạch của cô diễn
ra suôn sẻ khi ông Pay cho phép cô lần đầu tiên sau hơn 4 năm ở với ông được về
thăm cha mẹ hôm 22/7 vừa qua, lúc con của Minh vừa tròn 18 tháng. Ông đưa Minh
tới cửa khẩu Săm Pun, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, và nhờ một phụ nữ buôn bán
tại đây dắt qua biên giới, nơi cô đã điện thoại hẹn gia đình đến đón. Minh thuật
lại:
“Lúc sắp về, gia
đình chồng bàn bạc rất kỹ, nhưng tôi không biết họ nói với nhau cái gì. Lúc tới
biên giới, ông chồng dặn về 3 ngày phải quay lại ngay vì đã có một đứa con rồi.”
Nhưng vừa bước chân
qua biên giới Việt Nam, Minh đã quyết định không bao giờ trở lại Trung Cộng nữa.
Ngay hôm sau, cô đã gọi điện báo cho ông Pay và lập tức thay đổi số điện thoại
liên lạc.
Minh nói dứt áo ra
đi khi con thơ hãy còn khát sữa là một quyết định hết sức đau lòng và đầy uẩn
khúc, nhưng người mẹ trẻ cương quyết thà bỏ con chứ không thể trở lại kiếp sống
‘nô lệ mới’:
“Tôi có nhớ tới đứa con của tôi, nhưng nghĩ lại thấy họ mua bán tôi như một món đồ chơi và một thứ vật nuôi, tôi thấy rất buồn. Nỗi nhớ con tới đâu thì thời gian rồi sẽ quên đi, không đau bằng họ bán tôi như vật nuôi và đánh đập tôi lúc tôi bị họ bắt cóc. Nghĩ tới đó tôi thấy rất cay, rất buồn. Nỗi nhớ con rồi sẽ qua nhưng nỗi đau về thể xác và tinh thần lúc tôi hãy còn là một đứa trẻ con sẽ không qua được, nên tôi quyết định không về nữa.”
“Tôi có nhớ tới đứa con của tôi, nhưng nghĩ lại thấy họ mua bán tôi như một món đồ chơi và một thứ vật nuôi, tôi thấy rất buồn. Nỗi nhớ con tới đâu thì thời gian rồi sẽ quên đi, không đau bằng họ bán tôi như vật nuôi và đánh đập tôi lúc tôi bị họ bắt cóc. Nghĩ tới đó tôi thấy rất cay, rất buồn. Nỗi nhớ con rồi sẽ qua nhưng nỗi đau về thể xác và tinh thần lúc tôi hãy còn là một đứa trẻ con sẽ không qua được, nên tôi quyết định không về nữa.”
Quyết định của Minh
khiến người chồng Trung Cộng hết sức bàng hoàng. Ông nói những cô gái được mua
về làm vợ như Minh trong làng của ông, có người đã ở đây hơn chục năm nay mà
không hề bỏ chạy. Ông Pay trần tình:
“Tôi chỉ muốn cô ấy
quay về, đứa con tội nghiệp còn quá nhỏ, nhưng tôi không liên lạc được với cô ấy
nữa. Nếu cô ấy quay lại, tôi sẽ cho cô ấy đi đi về về thăm gia đình.”
Tố cáo buôn người và
hồi đáp của chính quyền
Vừa về được Việt
Nam, Minh đã lập tức trình báo công an huyện Bảo Lâm và gửi đơn tố cáo lên công
an tỉnh Cao Bằng về vụ bắt cóc phụ nữ-trẻ em bán sang Trung Cộng mà 3 chị em cô
là những nạn nhân trực tiếp.
Người anh cả trong
gia đình Minh, anh Lý Thành Lương, cho biết:
“Họ bảo ‘Về được thì
tốt rồi,’ chỉ như vậy thôi. Lúc 3 chị em vừa mới mất tích, gia đình đi tìm khắp
nơi và lên trình báo công an huyện Bảo Lâm nhiều lần và xin giấy thông hành qua
Trung Cộng tìm kiếm, nhưng công an huyện nói không đủ thẩm quyền làm việc này
và chỉ lên đồn biên phòng làm. Tới đồn biên phòng, họ bảo không phải thẩm quyền
họ làm, mà của công an. Trở lại công an huyện, họ chỉ lên công an tỉnh Cao Bằng.
Không có giấy phép đi, gia đình chúng tôi, tôi đây, trực tiếp liều mạng đi tìm ở
khu vực giáp biên giới 1, 2 lần nhưng không thấy. Vì mình không có người thân,
không biết liên lạc ở đâu nữa, cho nên bó tay. Chỉ biết nhờ vào công an thôi mà
họ cũng không giúp được.”
Anh Lương kể hôm 5/4
sau khi nối được liên lạc với Minh, gia đình anh đã gặp trực tiếp ông Lý Hữu Cư
, Đội trưởng Đội Phòng chống Tệ nạn Xã hội của Công an huyện Bảo Lâm, nhưng ông
Cư nói công an không giúp được và bảo rằng “Biết được còn sống là mừng lắm rồi.”
Trong ba chị em bị bắt
cóc bán sang Trung Cộng vào năm 2011, cô Lý Thị Sua là người đầu tiên may mắn
chạy thoát về Việt Nam và đã nhiều lần làm đơn tố cáo gửi công an tỉnh, huyện
xin can thiệp giải cứu hai chị em còn lại, nhưng cũng không được hồi đáp. Có lần
cô nhận diện được kẻ bắt cóc và báo công an, nhưng Lô Văn Hiền bị câu lưu không
lâu lại được thả. Phó trưởng công an huyện, ông Dương Minh Hải, nói với gia
đình rằng xác minh Hiền không phạm tội nên phóng thích.
công an huyện Bảo Lâm
Chúng tôi rất nhiều
lần liên lạc với công an huyện Bảo Lâm để ghi nhận ý kiến giới hữu trách, nhưng
không lần nào được hồi đáp. Trong nhiều tuần lễ liên tiếp, chúng tôi gọi vào số
di động của Phó trưởng công an Dương Minh Hải đều không được bắt máy.
Bộ Công an Việt Nam
nói đã phối hợp với công an Trung Cộng tấn công tội phạm buôn người từ Việt Nam
sang Trung Cộng, nhưng không cho biết đã giải cứu được bao nhiêu trường hợp.
Tiến sĩ Nguyễn Đình
Thắng, đồng sáng lập Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Á Châu (CAMSA), tổ chức phi
vụ lợi hỗ trợ các nạn nhân bị buôn người tại các vùng biên giới Việt Nam trong
đó có trường hợp của cô Minh, cho biết CAMSA đã có phương án can thiệp:
“Chúng tôi đang chờ
thêm một thời gian ngắn nữa để xem sự hồi đáp của chính quyền Việt Nam tới đâu,
lúc đó chúng tôi sẽ khởi động một cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ can thiệp.
Chúng tôi thật sự đã báo động Bộ Ngoại giao Mỹ rồi. Đến nay chúng tôi đã can
thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp cho 11.000 nạn nhân đã được giải cứu mà không hề
có một trường hợp nào được chính quyền Việt Nam điều tra , chưa kể tới vấn đề
trừng phạt. Nhưng dù sao chúng tôi cũng phải đi qua thủ tục báo động với chính
quyền địa phương trước đã. Luật pháp Hoa Kỳ có điều khoản giải cứu cho nạn nhân
và chính phủ Mỹ có cơ quan đánh giá từng quốc gia mỗi năm. Chính phủ nào không
hợp tác phòng-chống buôn người thì có thể bị đưa vào cấp hạng 3, có thể bị chế
tài. Chúng tôi tin rằng với sự can thiệp của Mỹ, chính phủ Việt Nam sẽ có động
cơ để tích cực hơn trong vấn đề giải cứu nạn nhân và trừng trị thủ phạm buôn
người.”
Báo chí nhà nước nói
trong quý đầu năm nay có 70 vụ buôn người bị phát hiện trên cả nước, với 145 nạn
nhân. Trong đó, cứ 10 vụ thì có 8 trường hợp bị bán sang Trung Cộng và các tỉnh
trọng điểm bao gồm Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An.
Theo thống kê của
CAMSA, chỉ riêng trong xã Lý Bôn của chị em cô Minh hiện có trên dưới 20 phụ nữ
bị mất tích. Thời gian gần đây cứ 1, 2 tháng lại xảy ra một trường hợp như thế.
Trong khi chưa có giải
pháp chống buôn người hiệu quả, những kẻ buôn người chưa biết sẽ phải trả giá
như thế nào, nhưng những trường hợp như cô Minh là một kinh nghiệm đau đớn cho
các nạn nhân Việt Nam, một bài học cay đắng cho những người đàn ông Trung Cộng
mua vợ, và là hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội.
Những đứa trẻ từ các
cuộc hôn nhân kiểu ‘nô lệ mới’ như thế, số phận chúng rồi sẽ ra sao? Làm sao có
thể chấm dứt những hậu quả đau lòng này? Thật đáng buồn, câu trả lời hãy còn bị
bỏ ngõ.
Trà Mi
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.