LS
Steven Dieu hiện làm việc trong văn phòng Biện Lý của Quận Harris County. Ông thường góp mặt trên đài truyền hình Việt
ngữ trong các buổi hội thọai liên quan về các đề tài Chính trị hoặc Sinh họat
trong Cộng Đồng NVQG Houston
.
30
tháng 4 hàng năm, một ngày như mọi ngày. Nhưng với những người Việt
tị nạn Cộng Sản, nó là một ngày lịch sử và gợi lên một tâm trạng khó quên. Tháng
Tư về, người Việt, trong và ngoài nước, nếu không vô cảm đều khó tránh việc ôn
lại quá khứ và chia xẻ ưu tư về tương lai của đất nước và dân tộc Việt Nam .
Tôi
thuộc mẫu người hay suy tư, nghĩ ngợi và viết trong thanh tịnh của màn
đêm. Suốt hai đêm qua, ngồi một mình uể oải trước máy computer. Tâm
tư trầm lắng. Tối nay, ngoài trời lại vừa đổ mưa. Trong
đêm khuya thanh vắng, tôi ngồi nghe tiếng mưa rơi rào rạt trên nóc nhà và chảy
xuống từ máng xối. Ngả lưng vào ghế, đôi mắt nhìn đăm đăm vào mặt
đồng hồ trên tường, miên man trầm tưởng, tôi cảm thấy buồn rười rượi.
Không hay đã gần hai giờ khuya rồi! Mãi đeo đuổi một ý nghĩ: ngót bốn
mươi năm xa vời vợi! Trong nửa đêm khuya, còn tôi thì đang ở nửa khoảng
của đời người. Hai đêm nay, trong bâng khuâng, tôi bắt đầu góp nhặt
lại một chuỗi dĩ vãng nằm rời rạc và ngổn ngang trong ký ức, để đi tìm một điều
gì đó mà chính tôi cũng không biết. Ngước mắt lên trần nhà, tâm hồn tôi
trôi lang thang không mục đích, như con thuyền trôi dạt trên biển cả
không bờ bến…
Tôi
sinh ra và lớn lên trong thời chiến lẫn thời bình. Như một động cơ vô
hình, chiến tranh và hòa bình thúc đẩy tôi phải lớn lên một cách vội vã.
Chiến tranh Việt Nam
đã kết thúc được 40 năm, và những tàn tích của cuộc chiến cũng dần dần biến
mất theo thời gian. Tuy nhiên, những ký ức đau thương của
thời hậu chiến, cấu tạo bởi xương máu, nước mắt và sinh mạng thì không thể nào
xoá bỏ được khỏi não trạng của tôi cũng như hàng triệu người Việt tị nạn Cộng
Sản.
Tôi
bước chân lên đất Hoa Kỳ vào một mùa Đông giá lạnh rét buốt. Người
tôi bỡ ngỡ, lòng tôi xôn xao một niềm vui trong hoang mang vô định và một nỗi
buồn khó tả. Sau nhiều ngày tháng trong trại tị nạn, trước mắt tôi
bây giờ là một thế giới hoàn toàn xa lạ. Lúc đó, tôi ngẫm nghĩ,
không hiểu tại sao mình còn sống bình yên được đến ngày hôm nay. Tôi
tự nhủ với mình là phải quên đi quá khứ, chú tâm học hành và xây dựng tương lai.
Những
năm đầu trên xứ Mỹ, tôi không đi tìm dĩ vãng, nhưng dĩ vãng đau buồn vẫn cứ lẩn
quẩn bên tôi, như bóng với hình. Khi màn đêm sụp xuống và ánh đèn
vàng bật lên, “bóng” lại về với tôi. Tôi mới hiểu là không cách nào
tách rời nó được. Vứt bỏ nó tức là vứt bỏ tôi! Bởi vì, tôi là nhân
chứng, là thuyền nhân trên con tàu dĩ vãng. Nhiều đêm, ký ức tự nó xoay
mình, tôi trở thành cái “bóng”, và “bóng” lôi cuốn tôi vào cơn ác mộng.
Đời
người tị nạn phần nhiều là buồn và khổ. Trên nỗi buồn tha hương lại
chồng chất thêm nhiều kỷ niệm đau khổ trong cuộc sống trên xứ
người. Một mùa đông lạnh buốt đi qua, lại thêm nhiều mùa đông rét
buốt tiếp đến. Ngày nọ rồi tới ngày kia, ký ức đau buồn dần dần cũng
phai nhạt theo bụi thời gian. Tôi cứ nghĩ mình đã quên dĩ vãng từ lâu,
nhưng rồi bất chợt, 30 tháng Tư về, quá khứ đau thương cũng đua nhau ùa về, như
vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tim tôi quặn thắt lại. Cho dù sau
40 năm, thỉnh thoảng dĩ vãng len lỏi vào giấc ngủ, trong yên lặng của màn đêm,
khóe mắt tôi, bỗng dưng thoáng nồng cay. Đây không phải là giọt nước mắt
của đau thương, lại càng không phải là nước mắt của hận thù.
Tại
sao ta không bỏ nước ra đi trong thời chiến tranh, mà lại trốn chạy trong thời
hòa bình, thống nhất? Có người hỏi.
Tôi
không phải là nạn nhân của chiến tranh. Tôi, cũng như hàng triệu
người dân miền Nam
, là nạn nhân của một chế độ độc tài. Là nạn nhân của những chính sách hà
khắc, đầy hận thù, băng hoại đạo đức, và tàn nhẫn vô nhân đạo dưới ách thống
trị của đảng Cộng Sản Việt Nam .
Như
một cơn gió lốc, sự kết thúc bất ngờ của cuộc chiến, chẳng những không hàn gắn
lại được vết thương “huynh đệ tương tàn”, mà còn tạo ra thêm những bi kịch đau
thương trong thời hậu chiến. Hòa bình và thống nhất, trong bối cảnh
miền Nam Việt Nam
, còn tồi tệ hơn thời chiến tranh. 40 năm đã qua, những vết thương
vẫn còn đó. Về phương diện tâm thần, dấu tích đau buồn của thời hòa bình
không chỉ ở một mà tới hai hay ba thế hệ. Trong hòa bình và thống nhất,
nhà cầm quyền Cộng sản đã xoá đi sinh mạng của trên 1 triệu người, đưa đến thảm
cảnh hàng triệu gia đình ly tán, hàng trăm ngàn trẻ em mồ côi cha lẫn mẹ, và
hàng trăm ngàn nạn nhân chôn xác giữa biển Đông.
Nạn
nhân của biển Đông? Họ là những người mất nước, mất luôn cả tên tuổi
và lý lịch. Thế giới đã đặt cho họ tên ‘Boat People’ (ThuyềnNhân)!
Nghĩa
trang là nơi chúng ta chôn cất người ‘đã chết’, là “nơi an nghỉ” cuối
cùng. Nhưng.., “Thuyền Nhân” Việt Nam đã biến Biển Đông
thành nghĩa trang, một nghĩa trang “chôn sống” hàng trăm ngàn thuyền nhân vô
tội, một nơi “an nghỉ” lớn nhất trên thế giới cho những Thuyền Nhân không
đến được bờ đất tự do. Một sự kiện lịch sử cho cả thế giới, mà chế
độ Cộng Sản Việt Nam
tránh né, không nhận trách nhiệm.
Chúng
ta đã đạt được gì? Dân tộc Việt Nam cho đến nay vẫn không có
tự do và dân chủ! Giai cấp “tư bản” vẫn còn đó! Tư bản của chế độ
Việt Nam Cộng Hoà được thay thế bằng giai cấp “tư bản đỏ”, mà những “đại gia”
chính là đảng viên quan tham già nua của Đảng Cộng sản! Người dân “bần cố
nông” vẫn còn đó! Đất nước Việt Nam vẫn nghèo nàn, dân trí
vẫn thấp kém. Người dân vẫn bị áp bức và bóc lột, tham
nhũng lan tràn khắp nơi trong nước, tệ hại hơn gấp trăm lần so với
chế độ Việt Nam Cộng Hoà trước đây. Đất nước thống nhất, dân tộc
Việt bị xiết chặt bởi cái “gọng kềm” của chế độ độc tài Cộng
sản. Chế độ Cộng sản đã mất đi cái “chánh nghĩa” mà bọn chúng đã cố
ngụy tạo khi xâm chiếm miền Nam .
Từ
thập niên 2000, một xu hướng kêu gọi người Việt hải ngoại nên “khép lại quá
khứ” và “hòa hợp, hòa giải dân tộc”. Trước đó, đã có một khẩu hiệu tương
tự: “xoá bỏ hận thù, hướng đến tương lai”. Tư tưởng nầy xuất sứ từ trong
nước, trở thành một chánh sách của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam , và năm
2004, trở thành Nghị Quyết 36.
Trong
khi đảng Cộng sản kêu gọi “Việt kiều” hãy “xoá bỏ hận thù”, thì chính họ lại
bóp méo và phô trương quá khứ. Trong suốt 40 năm qua, nhà cầm quyền
Cộng sản thống trị với một “chánh sách nhồi sọ”. Họ bắt buộc người dân
phải ăn mừng cuộc chiến thắng chống Mỹ cứu nước, tôn sùng bác Hồ vĩ đại, ca
ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, liên tục không ngừng nghỉ: từ tiểu học đến
đại học, trong những buổi tối “học tập chính trị” tại phường khóm, trong các
buổi biểu diễn văn nghệ, trong các cuộc triển lãm, trong nghệ thuật phim ảnh,
và trong ngành truyền thông báo chí. Thậm chí, những bài hát ca tụng Hồ
Chí Minh, vinh danh Đảng được hát đi hát lại mỗi ngày qua những cái loa phóng
thanh đặt tại những góc đường, những vở kịch, những cuốn phim về lịch sử chống
Mỹ cứu nước cũng được chiếu đi chiếu lại hàng tuần.
Vâng, chúng
ta có thể khép lại quá khứ đau thương, nhưng không có nghĩa là quên nó
đi. Nhớ đến quá khứ đau thương không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để
tránh lặp lại những sai lầm đã xảy ra, và cũng để nhận thức được nguồn gốc của
mình: “người Việt tị nạn Cộng Sản”. Nếu chúng ta quên đi quá khứ thì
chẳng khác gì quên đi sự hy sinh của những Quân, Dân, Cán, Chính và các chiến
sĩ Việt Nam Cộng Hoà, của cha mẹ, của người thân, và của anh em đồng đội. Quá
khứ là một phần của cuộc đời, là nền tảng tạo thành ngày hôm nay. Có
quá khứ thì mới có ngày hôm nay. Cho nên, dù dĩ vãng đầy đau thương
thì cũng phải biết quý trọng nó, vì đó là một phần trong cuộc sống của mỗi
người mà không ai có thể chối bỏ và thay đổi được.
Chủ
nghĩa Cộng sản đã sụp đổ trên 25 năm. Ngay cả tầng lớp đảng viên già
nua, và đảng viên lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nhà nước Việt Nam cũng
đã vứt bỏ lý tưởng Cộng sản từ lâu. Nhưng bề ngoài, họ phải bám vào nó,
như bám vào một thây ma, để tồn tại, bảo vệ nó để biện minh cho quyền lực và sự
thống trị của họ. Những hành động: chuyển tài sản, cho con cháu du học,
đi trị bệnh, đầu tư ở những nước tự do đã cho chúng ta thấy rõ điều này.
Nhìn
lại quá khứ, chúng ta ngẫm nghĩ đến tương lai. Có một kế hoạch hoặc đường
lối nào sớm đem lại dân chủ và tự do cho đất nước và người dân Việt Nam
? Kế hoạch? Tôi không có! Nhưng, tôi biết việc gì chúng ta
không nên làm. Bởi vì, nếu làm sẽ có ảnh hưởng tai hại đến
những người đang tranh đấu và hy sinh cho một xã hội Việt Nam tự do
và dân chủ.
Tôi
không thể chấp nhận hòa hợp hòa giải dân tộc một cách mù quáng. Một
chánh sách dựa hoàn toàn trên nền tảng của sự ảo tưởng (mirage) và lừa bịp. Khuyến
khích hoặc hô hào cho hòa hợp hòa giải dân tộc là điều mà chúng ta không nên
làm.
Tôi
chưa bao giờ có hận thù với đồng bào tôi, nên không đặt “hòa giải, hòa hợp” với
đồng bào thành vấn đề. Nếu ai có hận thù, có nợ máu với dân tộc, thì
hoà giải với dân tộc là điều cần phải làm. Tôi và đồng bào
Việt Nam
đều là nạn nhân của chế độ Cộng sản. Tôi may mắn không còn là nạn nhân
của chế độ, và trở thành người “tị nạn”. Ngày nào còn chế độ Cộng
sản, ngày đó tôi vẫn còn “tị nạn”. Ngược lại, hàng chục triệu đồng bào
Việt Nam
vẫn còn là nạn nhân của chế độ.
Hòa
giải ở đây là hoà giải giữa nhà nước Cộng sản và dân tộc Việt Nam , không
phải chỉ với người Việt hải ngoại. Hay nói rõ hơn là hoà giải giữa
tập đoàn thống trị độc tài Cộng sản với đồng bào bị trị, bị Cộng sản trả thù,
đàn áp, bịt miệng, tù đày, giết hại, bóc lột, và cướp của.
Nếu
nhà cầm quyền Cộng sản thật sự muốn hòa giải với đồng bào, họ đã thực hiện từ
ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong 4 thập niên qua, họ vẫn chưa hòa giải
với 90 triệu người Việt trong nước, thì tại sao họ lại quan tâm muốn hòa giải
với 4 triệu người Việt hải ngoại, nếu không phải là để khai thác tài chánh và
huy động “chất xám” của “Việt kiều” trong công cuộc đóng góp cho Đảng và Nhà
nước? Và tại sao có một số người Việt và nhiều đảng phái
chính trị chống Cộng ở hải ngoại cũng hô hào hòa hợp hoà giải, nếu không phải
là mưu đồ hay mưu lợi kinh tài cho cá nhân hay đảng phái của họ?
Trên
nguyên tắc, ai đã gây hận thù thì nên hoà giải với nạn nhân của
họ. Làm sao bắt nạn nhân đến xin hòa giải với kẻ vẫn còn hành hạ
mình? Nếu nhà nước Cộng sản thật sự muốn hòa giải hận thù với dân tộc,
thì họ chỉ cần hủy bỏ đảng Cộng sản, trả lại quyền tự do và nhân quyền cho đồng
bào trong nước, trả tự do cho những người tù nhân lương tâm, những người bất
đồng chính kiến: nạn nhân của chế độ.
Như
một gã vũ phu trong gia đình. Nếu hắn ngưng, không đánh đập, bạo hành với
người thân trong gia đình, thì hạnh phúc và tình yêu sẽ tự động mở rộng
bàn tay đón tiếp họ. Những lời lẽ hứa hẹn, xin lỗi đầu môi
cho qua thời gian sẽ không bao giờ hoà giải được bạo hành trong gia
đình. Ngược lại, càng hứa hẹn, càng xin lỗi giả dối, thì chỉ càng
làm cho nạn nhân ngao ngán bản chất lừa bịp. Chỉ có những hành động
cụ thể mới có thể chứng minh được thiện chí.
Đúng
vậy, thiện chí là yếu tố căn bản nhất trong việc hòa giải. Hòa giải
dân tộc không chỉ đơn thuần bằng lời nói và cách nói của nhà nước Cộng sản; họ
phải thể hiện tinh thần hòa hợp hoà giải dân tộc qua hành động và sự thật
tâm. Khi nhà nước Cộng sản thật sự hoà giải với đồng bào trong nước, quá
khứ đau thương của người Việt hải ngoại sẽ tự động hóa giải theo.
Người Việt trên toàn thế giới sẽ hoan nghênh đón mừng một Việt Nam mới,
thật sự tự do và dân chủ.
Thiện
chí? Không lâu sau khi ký Nghị Quyết 36-NQ/TW, ngày 26 tháng 3, 2004, kêu
gọi sự đóng góp của “Việt kiều” ở hải ngoại trong “công cuộc đổi mới và chánh
sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước”. Đảng và nhà nước vào
tháng 6 năm 2005 đã dùng áp lực kinh tế và giao thương yêu cầu chính quyền
Malaysia và Indonesia đục bỏ hai tấm bia tưởng niệm những Thuyền Nhân đã bỏ
mạng ngoài biển khơi (do người Việt hải ngoại dựng lên vào dịp 30-4-2005) tại
Pulau Bidong và Galang. Mặt trước của Đài Tưởng Niệm viết: “Để tưởng niệm
hàng trăm ngàn người Việt bỏ mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Mặc dù họ
đã chết vì đói khát, bị hãm hiếp, vì kiệt sức hay bất kỳ lý do nào khác, chúng
ta nguyện cầu họ mãi mãi được bình an. Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị
lãng quên. Cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005”. Hai đài tưởng
niệm tại Pulau Bidong và Galang đã bị đục bỏ. Tấm bia tưởng
niệm những thuyền nhân vô tội cũng không được thực hiện.
Chúng
ta có thể dễ dàng đánh giá nhân phẩm và thiện chí của Đảng và Nhà nước Cộng sản
Việt Nam
qua cách họ đối xử với những người đã nằm xuống.
Tại
sao với quá khứ đầy đau thương vẫn còn đó, những lời hứa hẹn giả dối, mị dân
cho qua thời gian và những chánh sách vô nhân đạo, cũng như sự tiếp tục đày
đọa, áp bức đồng bào vô tội của Đảng và nhà nước Cộng sản trong quá khứ và hiện
tại, trên 60 năm dài, mà vẫn có người tin theo một cách mù quáng?
Gạt
tôi một lần, thật xấu hổ cho anh; gạt tôi hai lần, tôi thật là xấu hổ! (Fool
me once, shame on you; fool me twice, shame on me!)
*****
Apr
30, 2011
Sau
ngày Cộng sản chiếm miền Nam
30/4/1975, khẩu hiệu “Chủ Nghĩa Mác Lê Bách Chiến Bách Thắng” đã được giăng
khắp hang cùng ngõ hẻm. Khẩu hiệu trên cũng được các cán bộ cộng sản từ Bắc vào
lên lớp giảng ...
May
01, 2011
Hình
ảnh biến cố tại Sài Gòn ngày 30-4-1975. http://baomai.blogspot.com/. BaoMai.
image. Một vài hình ảnh biến cố tại Sài Gòn ngày 30-4-1975. image. Posted by
BaoMai Mai at 12:31 AM · Email ThisBlogThis!Share to TwitterShare to ...
Apr
30, 2014
Như
vậy, thực tế sau ngày 30-4-1975, nếu là một “Chiến thắng thật”, tình hình Việt
Nam phải khác, nghĩa là CSVN phải được Liên Xô và các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa
anh em” hỗ trợ tích cực, toàn diện và vô điều kiện để xây ...
Apr
30, 2012
Ngày
30-4-75, đối với họ, không hơn không kém một vết nhơ lịch sử cho cả dân tộc vì
những tác hại không ngờ của nó: Sau ngày 30-4-75 người CSVN miền Bắc nhìn người
miền Nam ,
nhân dân và quân đội, công, cán, ...
Apr
06, 2015
Theo
những gì em nhớ trong đầu, hồi xưa, phần lịch sử họ dạy tất cả những ngày lễ
trong năm như 30-4 hay 2-9…. Họ cho học sinh nghe lại vấn đề như: chính quyền
miền Nam
ngày xưa là chính quyền Mỹ ngụy, làm tay sai ...
May
12, 2014
Hằng
năm biến cố 30-4-1975 thường được người Việt Quốc gia tưởng niệm như một ngày
“Quốc hận”. Trong khi đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thường tổ chức kỷ niệm như một
ngày “Đại thắng Mùa Xuân”.
Nov
26, 2013
Ông
chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) nằm cạnh tôi kể chuyện anh: “Bọn công an (bắc kỳ 2
nút) cùng người giúp việc nhà anh, là chị đã xin nghỉ việc vài ngày sau
30/4/1975, đạp cửa bước vào và lớn tiếng hỏi anh: “lương lính, quân ...
Apr
23, 2011
Một
vài hình ảnh xẩy ra ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập: image.
http://www.youtube.com/watch?v=L7J2mJp1pkY. Sài gòn ơi, tôi đã mất người trong
cuộc đời. Sài gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời. Giờ còn đây, những kỷ ...
May
01, 2012
Cả
một hạm đội gồm 50 chiến hạm được huy động từ nhiều tháng trước ngày 30-4-1975.
image. Đầu tháng 3 năm 1975, khu trục hạm USS Kirk được lệnh nhổ neo từ căn cứ San Diego , để đi hộ tống
hàng không mẫu hạm ...
Oct
04, 2014
Nếu
không có công điện của Đại tướng Minh, 30/4/1975 có phải là ngày cuối cùng của
Việt Nam Cộng hoà và câu chuyện người Mỹ di tản sẽ có khác? Vì Đại sứ Martin đã
rất bướng bỉnh, không vội lên kế hoạch di tản bất ...
Hoà giải cái gì ? " Đừng có nghe nhửng gì cộng sản nói mà hảy nhìn nhửng gì cộng sản làm "
ReplyDelete