https://www.youtube.com/watch?v=kGDN3UQEWQY&feature=youtu.be
Một
bài thơ Hồ Xuân Hương qua bút vẽ của Bùi Xuân Phái
Trong
suốt một đời, tôi chỉ muốn được nói thật nhiều về đất nước và con người Việt Nam .
Khi thì nói với ngôn ngữ ngợi ca và tả thực hay hiện thực như trong nhạc
kháng chiến. Khi thì nói một cách trừu tượng, siêu hình với trường ca. Tâm
ca thì dùng hẳn trực ngôn và khi thấy nói như vậy mà chưa thấy đủ thì có tâm
phẫn ca đi theo...
Nhưng
nếu những bài ca kháng chiến mang ngôn ngữ của cả bình dân (nhất là nông dân)
lẫn trí thức thì những loại ca sau đó như trường ca, tâm ca, tâm phẫn
ca nhắm vào giới có học nghĩa là thanh niên, sinh viên thị thành. Tôi lại
còn nhận thấy trường ca, tâm ca đứng đắn quá, nói cách khác, nó cũng có thể là
bài ca đạo đức giả hay mị dân, là điều tôi sợ nhất trong đời ! Tôi bèn phá tung
những huyền thoại đó bằng cách xuống vỉa hè.
Ngôn
ngữ vỉa hè Saigon lúc đó là gì ? Là Sức
mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Ô Kê Salem... Cũng chẳng cứ gì anh phu xe, chị bán hàng
rong, chú bé đánh giầy, người lính Cộng Hoà -- lính mà em -- mới chế
ra những danh từ của thời đại. Ngay Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Tướng, Tá, nhà
văn, nhà thơ... ai cũng đều nói : sức mấy, sức voi, ô kê, chịu chơi, Tết Congo ... Do đó
tôi cũng cởi áo trang nghiêm để khoác áo bình dân. Tôi soạn vỉa hè ca số
1, Sức Mấy Mà Buồn :
Sức
mấy mà buồn ! Buồn Giao Chỉ không lớn !
Sức mấy mà buồn ! Chịu chơi cả với buồn...
Sức mấy mà buồn ! Chịu chơi cả với buồn...
...
với mục đích dùng ngôn ngữ của vỉa hè thành phố Saigon để nói những gì tôi đã
nói qua tâm ca. Theo tôi, tinh thần sức mấy là một cái gì rất Việt Nam .
Đó là phản ứng muôn đời của người mình trước định mạng. Nó là niềm tự tin, sự
coi thường khó khăn.Sức Mấy Mà Buồn, trong thực tế nói triết lý đó lên một cách
rất bình thường, không dung tục hoá hay cường điệu hóa chút nào cả ! Vỉa hè ca
này nói cái gì ? Nó nói trong ái tình :
Tôi
buồn vì nó đã bỏ tôi !
Tôi buồn vì nó đã đi rồi !
Tôi buồn nhưng nó vẫn thảnh thơi
Tôi buồn một lúc sẽ tức cười !
Ơ ! Sức mấy mà buồn...
Tôi buồn vì nó đã đi rồi !
Tôi buồn nhưng nó vẫn thảnh thơi
Tôi buồn một lúc sẽ tức cười !
Ơ ! Sức mấy mà buồn...
Đối
với những cái buồn viển vông như :
Tôi buồn vì thích hát, chuyện phim.
Tôi buồn vì những cái hão huyền.
Tôi buồn không có cớ là (tôi) điên.
Không buồn lại rước lấy cái phiền !
Hơ ! Sức mấy mà buồn...
Tôi buồn vì thích hát, chuyện phim.
Tôi buồn vì những cái hão huyền.
Tôi buồn không có cớ là (tôi) điên.
Không buồn lại rước lấy cái phiền !
Hơ ! Sức mấy mà buồn...
Còn
cái buồn lớn của người Việt Nam
hiện nay là gì ? Là chiến tranh phải không ? Cho nên :
Tôi
buồn vì đấm đá mọi nơi.
Tôi buồn vì chém giết tơi bời.
Tôi buồn vì đất nước tả tơi...
Tôi buồn vì chém giết tơi bời.
Tôi buồn vì đất nước tả tơi...
Vỉa
hè ca bèn mượn lời của nhà văn Vũ Trọng Phụng :
Biết
rồi ! Khổ lắm ! Cứ nói hoài !
Cái
tinh thần sức mấy đã có sẵn trong người Việt Nam cho nên tác giả chỉ kết luận
dùm :
Không
buồn thì đã có làm sao ?
Không buồn là sẽ hết đau đầu !
Không buồn đi đấu hót cùng nhau.
Yêu đời bằng bất cứ giá nào !
Không buồn là sẽ hết đau đầu !
Không buồn đi đấu hót cùng nhau.
Yêu đời bằng bất cứ giá nào !
Và
câu nói cuối cùng của tác giả là gì ? Là :
Sức
mấy mà buồn, cười lên để tranh đấu !
Sức mấy mà buồn vượt ra khỏi cái sầu !
Sức mấy mà buồn niềm vui ở ta đến.
Sức mấy mà buồn phải vui để sống còn !
Sức mấy mà buồn vượt ra khỏi cái sầu !
Sức mấy mà buồn niềm vui ở ta đến.
Sức mấy mà buồn phải vui để sống còn !
Lúc
tôi soạn vỉa hè ca là lúc quân đội ngoại quốc đổ bộ ào ạt vào Việt
Nam, trước sự xâm nhập của nền văn minh vật chất, một số người mình quả thực có
chạy theo lối sống Âu Mỹ ! Sự ham muốn những gì quá tầm tay của mình, chẳng hạn
già như tôi mà còn mê gái sẽ bị gái nguýt cho một cái ''Xí ! Già mà ham''
! Trong xã hội Việt Nam
hồi đó, nếu ta ngăn được cái lối nghèo mà ham ở mọi địa hạt, ta sẽ
tránh được cảnh ô kê salem rất
lem nhem đó. Tôi soạn bài Nghèo Mà Không Ham với mục đích này :
Nghèo
mình nghèo mà mình không ham
Xin cô em đừng nên quá đáng
Nghèo mình nghèo mà mình không ham
Xin anh Hai đừng nên láng cháng
Chớ khoe giầu là chớ có khoe giầu
Chớ khoe sang là chớ có khoe sang
Nghèo mình nghèo mà mình không ham
Xin bà con đừng nên vội mừng...
. . . . . . . . . .
Nghèo mình nghèo là nghèo cho vui
Không lên voi mình không xuống chó
Nghèo mình nghèo của mình không to
Tuy không ''beau'' mình không xí quá (1)
Sống cho đẹp là mình sống cho đẹp
Chết cho oai là mình chết cho oai
Nghèo mình nghèo là nghèo chơi chơi
Chưa thực ai thực ai là nghèo...
Xin cô em đừng nên quá đáng
Nghèo mình nghèo mà mình không ham
Xin anh Hai đừng nên láng cháng
Chớ khoe giầu là chớ có khoe giầu
Chớ khoe sang là chớ có khoe sang
Nghèo mình nghèo mà mình không ham
Xin bà con đừng nên vội mừng...
. . . . . . . . . .
Nghèo mình nghèo là nghèo cho vui
Không lên voi mình không xuống chó
Nghèo mình nghèo của mình không to
Tuy không ''beau'' mình không xí quá (1)
Sống cho đẹp là mình sống cho đẹp
Chết cho oai là mình chết cho oai
Nghèo mình nghèo là nghèo chơi chơi
Chưa thực ai thực ai là nghèo...
Hai
bài ca vui đùa này được in ra và bán rất chạy. Nhưng lập tức có sự phê bình gay
gắt đến từ nhiều phía. Tôi định soạn thêm bài Ô Kê Salem, Ô Kê Nước
Mắm thì cụt hứng ! Nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn chưa chịu thua...
Rồi tôi phản ứng lại bằng cách soạn những bài ngỗ nghịch hơn vỉa hè ca. Và phải có qui mô hơn. Đó là mười bài tục ca, bài thì tục về chữ, bài thì tục về ý, bài thì tục về chuyện. Bài đầu tiên là sự phát triển của câu ca dao mà ai cũng thích :
Tục ca số 1
Rồi tôi phản ứng lại bằng cách soạn những bài ngỗ nghịch hơn vỉa hè ca. Và phải có qui mô hơn. Đó là mười bài tục ca, bài thì tục về chữ, bài thì tục về ý, bài thì tục về chuyện. Bài đầu tiên là sự phát triển của câu ca dao mà ai cũng thích :
Tục ca số 1
Em
như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ...
Anh như con chó ngồi trông trên bờ...
Tôi
cũng thích nó và bịa thêm lời mới :
Em
đừng nói vậy em khờ
Ba em hồi đó cũng chờ như anh...
Ba em hồi đó cũng chờ như anh...
Tôi soạn thêm một vế bốn câu hát nữa để thành bài tục ca nhan đề Hát Đối :
Anh
như con đực chạy rông
Còn em như con mèo cái, chổng mông em gào...
Còn em như con mèo cái, chổng mông em gào...
Nữ
:
Anh
đừng nói chuyện tào lao
Má anh hồi trước... cũng ồn ào như em...
Má anh hồi trước... cũng ồn ào như em...
Tục
ca số 2
Thì
lấy cảm hứng ở một câu thơ rất lãng mạn của nữ thi sĩ thời tiền chiến, T.T.KH :
Người
ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi...
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi...
Câu
thơ buồn này dù sao cũng có thể được coi như một mối tình thơm tho vì có mùi
hương của những bông hoa hình con tim vỡ. Tục ca của tôi, khởi đi từ câu thơ đó
thì lại mang tên là Tình Hôi... hát theo nhịp american blues :
Người ấy thường hay đến gặp tôi
Thở dài, thở dài khi thấy... nách tôi hôi
Nói rằng : Sao nách anh hôi thế ?
Mỗi lần ngửi thấy chết đi thôi..
Mỗi lần ngửi thấy chết đi thôi
Nhưng chót yêu anh, em ráng chịu cho rồi
Vả chăng em vẫn thường hay nói :
Tè mình đôi lúc cũng... hôi hôi...
Tục Ca số 3 là bài thơ của Bùi Giáng, Gái Lội Qua Khe, nói tới chuyện một cô con gái bị ướt đầm thân thể sau khi lội qua con suối rừng và phải cởi quần áo ra để vắt cho khô. Thi sĩ trông thấy thế thì nhắm mắt lại, không nhìn cô gái loã thể. Nhưng có cái khăn thường quấn trên đầu để khấn vái tổ tiên thì thi sĩ vui lòng cho cô gái mượn để lau... lau bất cứ chỗ nào, tùy ý ! Thi sĩ nhắm mắt không nhìn cô gái lau tay chân, lau mình mẩy nhưng tổ tiên ở dưới mồ thì thức dậy và khuyên cô gái cứ việc tự nhiên tùy nghi sử dụng cái khăn vẫn thường dùng để khấn vái tổ tiên.
Tục ca số 4
Thầy
bùa tuy ra cúng
Úm ba la ! Úm ba la !
Mà lòng còn tưởng hoài.
Nậm rượu thờ, đem xuống
Úm ba la ! Úm ba la !
Thầy luồn vào của ... thầy !
Úm ba la ! Úm ba la !
Mà lòng còn tưởng hoài.
Nậm rượu thờ, đem xuống
Úm ba la ! Úm ba la !
Thầy luồn vào của ... thầy !
Nậm
rượu mắc ngẵng, muốn lôi ra chẳng được, thầy bùa như chết cứng, đứng giữa sân
khư khư ôm nậm rượu. Chị vợ trông thấy phì cười và phọt củ từ ra ! Tưởng là
miếng thịt, con chó cái nhẩy vọt ra tìm cục mồi. Thầy bùa nghi chó cắn, hoảng
sợ chạy, nậm rượu đập vào bàn, vỡ tan tành ! Thế là cả ba thoát nạn. Thầy bùa
bèn niệm chú : Úm ba la ! Ba ta cùng khỏi !
Như đã nói, trong thời gian tôi đi học nhạc ở Pháp, tôi rất yêu thi sĩ kiêm
nhạc sĩ và ca sĩ Georges Brassens. Anh này soạn những bài hát rất tục, rất sắc
bén... nói thẳng vào xã hội nước Pháp, nhưng bao giờ cũng nói với tâm hồn của
một thi nhân. Trong số những bài được gọi là chansons grossières của
ông, tôi thích bài Gare Au Gorille nhất.
Tục ca số 5
Tục ca số 5
Tôi dịch nguyên văn
bài này để thành ra tục ca số 5,
nhan đề Khỉ Đột :
Đàn
bà rủ nhau ra gánh xiếc xem
Một con khỉ đột đứng im trong chuồng,
Lớn to như người, chẳng chi là kém !
Bà này bà kia mắt liếc mắt lia
Nhìn đi nhìn lại cái nơi đen xì,
Vốn tên tục tằn, mẹ tôi cấm nghe...
Một con khỉ đột đứng im trong chuồng,
Lớn to như người, chẳng chi là kém !
Bà này bà kia mắt liếc mắt lia
Nhìn đi nhìn lại cái nơi đen xì,
Vốn tên tục tằn, mẹ tôi cấm nghe...
Một hôm con khỉ đột thoát ra khỏi
chuồng và vui mừng vì phen này sẽ được mất tân. Dù nữ lưu trong vùng xưa rày
vẫn phục khỉ đột là hay hơn người nhưng bây giờ họ chạy đâu mất tung. Trừ ra
một bà cụ và một ông Quan Toà...
Khỉ
đột nhìn quanh không thấy gái tơ
Bèn đi đủng đỉnh tới nơi ông Toà,
Tới nơi bà già, khỉ toe toét ra...
Bèn đi đủng đỉnh tới nơi ông Toà,
Tới nơi bà già, khỉ toe toét ra...
Bà
già cho rằng ta đã 60 mà con khỉ đột có ưa biết mùi thì cái duyên may này, thật
không ngờ tới ! Ông quan Toà thì yên chí :
Làm
sao khỉ đột dám nghi ta là khỉ non trắng da ?
Nào ngờ khỉ ta tuy có tiếng tăm
Là tay khoẻ mạnh, vốn tay dâm thần,
Khỉ ta khờ lắm !
Phải chọn bà kia cho đúng lẽ ra
Ngờ đâu khỉ đột nắm tai ông Toà
Cùng ra chiến khu...
Nào ngờ khỉ ta tuy có tiếng tăm
Là tay khoẻ mạnh, vốn tay dâm thần,
Khỉ ta khờ lắm !
Phải chọn bà kia cho đúng lẽ ra
Ngờ đâu khỉ đột nắm tai ông Toà
Cùng ra chiến khu...
Câu
chuyện kết thúc với hình ảnh con khỉ đột hiếp dâm ông Toà ở khu rừng lá. Ông
Quan bù lu bù loa khóc, giống như anh tù nhân mà ông vừa kết án tử hình hôm
qua...
Tục ca số 6
Vào những năm đầu của thập niên 70, tại Saigon
có phong trào sửa sắc đẹp. Tôi soạn bài tục ca nhan đề Mạo Hoá để
phản ánh xã hội thời đó :
Tục ca số 6
Tôi
có người yêu, cái đít to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua đã khiến cho ta phải ngỡ ngàng
Vừa to vừa lớn ! Như những mặt Vua
Mặt ông Tổng Thống, cũng phải thua...
Cái đít nhìn qua đã khiến cho ta phải ngỡ ngàng
Vừa to vừa lớn ! Như những mặt Vua
Mặt ông Tổng Thống, cũng phải thua...
Nhưng
có ngờ đâu mông của em được bơm nhựa, mỗi khi em bị cúm, tiêm thuốc vào mông em
thì gẫy cả kim của anh thầy chích. Luân lý của bài này là : Mông giả, vú giả,
răng giả, tóc giả... cái gì của em cũng giả, thì anh phải đi Đức Quốc mua một
cái giả cho hợp marque với em !
Tục ca số 7
Tục ca số 7
Nhìn
L... là một chuyện có thật, xẩy ra hồi tôi còn bé và sống ở tại một tỉnh
nhỏ ngoài Bắc Việt. Một lũ ranh con thích rủ nhau đi nhòm phụ nữ tại cầu tiêu
công cộng. Ai ngờ một hôm nhòm đúng cái đó của bà mẹ một thằng trong bọn. Từ đó
:
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Cùng nói với nhau :
Xin chừa ! Xin chừa !
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Cùng nói với nhau :
Xin chừa ! Xin chừa !
Hình minh họa
Trời
sinh, Trời sinh con nít hay tọc mạch
Tò
mò, tò mò chuyện gì cũng có
Tò
mò xục xạo moi ra
Trời
cho, Trời cho cái tính hay nhìn trộm
Đàn
bà, đàn bà trẻ già lớn bé
Đàn
bà, nào hở hang ra
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Bị
đánh chết cha không chừa, không chừa
Tụi
tôi, tụi tôi xưa vẫn hay tụ tập
Đầu
đường, vùng này chật chội thiếu thốn
Mọi
người, dùng cầu tiêu chung
Cầu
tiêu, cầu tiêu xây cất cao mặt lộ
Một
tầng, cửa trồ thì làm quá ngắn
Ở
ngoài nhìn vào thênh thang
Hình minh họa
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Bị
đánh chết cha không chừa, không chừa
L..
non, L.. non hay lớn con mập mạp
L..
mềm, L.. tròn hoặc L.. móm mém
Mọi
L.. mình đều vui xem
Một
hôm, một hôm đang đứng chơi thằng bạn
Chạy
về, trình làng ngoài cầu có cái L.. vàng
Cả
làng ra coi
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Bị
đánh chết cha không chừa, không chừa
Hình minh họa
Chạy
ra, chạy ra chen chúc nhau thưởng ngoạn
Trầm
trồ, L.. này vành đầy mép lớn
Hồng
hào rậm rạp lông xoan
Tụi
tôi, tụi tôi khen nức khen thằng bạn
Rằng
là L.. này mày vừa khám phá
Gọi
là thần L.. không ngoa
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Bị
đánh chết cha không chừa, không chừa
Ỉa
xong, ỉa xong khi đứng lên mở cửa
Về
nhà, nào ngờ L.. mình vừa ngắm nghía
Là
L.. của mẹ thằng rủ đi coi
Từ
nay, từ nay thôi mất đi một chuyện
Bật
cười, chỗ này L.. đầy dẫy đám
Nhìn
L.. chẳng còn ai ham
Hình minh họa
Lũ
ranh con tò mò tọc mạch
Cùng
nói với nhau xin chừa, xin chừa
Lũ ranh con tò mò tọc mạch
Cùng nói với nhau xin chừa, xin chừa
Tục
ca số 8
Tục
ca số 9
Tục ca số 10
Sau hai mươi năm, bình tĩnh nhìn lại thời thế, phải công nhận một điều : người nào sống trong xã hội Việt Nam liên tục từ 1954 thì cho tới 1968-70 -- là lúc tôi soạn những bài ca nổi giận như tâm phẫn ca, vỉa hè ca, tục ca -- họ cũng phải nổi giận như tôi ! Người dân miền
Ngay cả Phật Giáo đang lên, tưởng rằng có thể đem lại đường lối tốt đẹp nhất để cho Miền
Ai cũng biết là dù chúng ta có ngồi lại với nhau, nói chuyện với nhau một cách xây dựng và có thiện chí nhất, có cởi mở hoàn toàn thì cũng không đi đến đâu hết. Mọi sự đã hoàn toàn ra khỏi tầm tay của người Việt, nạn nhân của một thời đại trong đó thế giới đang ở điểm cao nhất của một cuộc chiến tranh lạnh !
Phản
kháng của tôi là sự kéo dài từ tâm ca, tâm phẫn ca qua vỉa hè
ca, tục ca. Phản kháng của anh em trong các nhóm du ca là bài hát của Nguyễn
Đức Quang : Xương sống tôi đã oằn xuống, triệu mưu toan cứ đè lên... Phản
kháng của Phạm Thế Mỹ làthương quá Việt Nam, của Tôn Thất Lập là đứng
dậy hát cho đồng bào tôi, của Miên Đức Thắng là hát từ đồng
hoang... Và của Trịnh Công Sơn là : Bao năm máu như sóng trôi thành
nguồn, máu đã khô trên ruộng đồng, máu âm u trong rừng rậm, từng dòng máu che
mặt trời soi quanh đời u tối... Người nói mạnh nhất là Giang Châu :
Tuổi
trẻ chúng tôi
Đã bao nhiêu năm lần lượt đi lên giàn lửa thiêu
Kiếp sống lang thang như mây chiều
Vì đâu xương máu ngất núi
Trên quê hương giẫy đầy hận thù...
Sao chúng tôi không có quyền lên tiếng nói
Sao chúng tôi phải gục đầu và hi sinh cho ngoại quyền
Cho chủ nghĩa, cho danh từ rỗng không ?
Đã bao nhiêu năm lần lượt đi lên giàn lửa thiêu
Kiếp sống lang thang như mây chiều
Vì đâu xương máu ngất núi
Trên quê hương giẫy đầy hận thù...
Sao chúng tôi không có quyền lên tiếng nói
Sao chúng tôi phải gục đầu và hi sinh cho ngoại quyền
Cho chủ nghĩa, cho danh từ rỗng không ?
Hai
mươi năm Việt Nam
-- từ 1954 tới 1975 -- là sự đấu tranh không ngưng nghỉ giữa người Việt hai
miền. Tại miền Bắc với một nền văn nghệ chính ủy, âm nhạc hoàn toàn phải phục
vụ tuyên truyền, đố ai tìm được một bài hát tình yêu hay phản kháng. — miền
Nam, may thay, người nghệ sĩ được nói lên đầy đủ hai khía cạnh của cuộc
đời (tôi sực nhớ tới bài hát rất được phổ biến hồi đó là Both Sides
Now của Judy Collins, người tình một thời của anh bạn Steve Addiss) nghĩa
là nói lên được đầy đủ cái tốt cái xấu, cái thực cái giả, cái buồn cái vui...
âu cũng là một liều thuốc an ủi cuộc đời. Sau thời huy hoàng của nhạc kháng
chiến, tới thời tương đối hoà bình nên có nhạc tình yêu rồi cũng phải có nhạc
nổi giận trước hoàn cảnh ngả nghiêng của đất nước chứ !
THƠ ĐIẾU NHẠC SĨ TÀI DANH PHẠM DUY
Bác Duy thôi đã thôi rồi (1)
Chín mươi ba tuổi một đời chơi "vui"
Nhạc của Bác đủ mùi đủ vẻ
Kể tài hoa già trẻ đều khen
Tám năm về với chồn đèn
Hàng thần lơ láo, phận hèn ra chi ? (2)
Già hết cách kiếm tì tiêu vặt
Thôi cũng đành muối mặt ... làm ăn
Còn hơn cái bọn chó săn
Trở cờ nối giáo thơ văn thối ùm
Cùng một lũ mánh mum kiếm chác
Quậy cộng đồng tan nát lập công
Đuôi chồn đuôi khỉ dưới mông
Thò ra mấy tấc thật không giống người
Theo lệnh đảng đười ươi gian trá
Đeo theo người quấy phá không buông
Bác về trong nước diễn tuồng
Kiếm ăn cũng phải y uông với chồn
Rằng ai cũng "Về Nguồn" là phải
Rằng bây giờ "thoải mái tự do"
Chồn ban phép được hát hò
Van xin luồn lọt mặt mo quen rồi
Tám năm đã thoáng trôi chớp mắt
Bác bỗng đi, đi thật rồi sao ?
Duy Quang đi mới hôm nào
Bây giờ Bác lại phều phào đi theo
Bác về gặp Tám Keo dưới ấy
Vác cây đàn, chống gậy chào thưa
Tôi mần thơ để tiễn đưa
Đủ rồi một kiếp đã thừa vui chơi
Chín mươi ba tuổi trời kể thọ
Quậy tưng bừng dính lọ không màng
Thương thay tài nhạc giỏi dang
Mà dâm quá mạng, cho làng nước kêu!
Nguyễn Đạt
January 27, 2013
(1) Mượn thơ cụ Yên Đỗ
(2) Mượn thơ cụ Tiên Điền Tố Như (Truyện Kiều)
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.