Nhạc
sĩ Phạm Duy đã trút hơi thở cuối cùng vào trưa nay 27.1 ở tuổi 93
Tháng
4 năm 1981 tôi bước chân xuống phi trường Los Angeles, California trong bỡ ngỡ
của một “dân giả quê mùa” lần đầu tiên đặt chân đến thành phố sầm uất nổi tiếng
của Hoa Kỳ. Đang lóng ngóng thì có tiếng reo “A! đây rồi…”. Một người đàn ông ăn
bận giản dị, chân đi dép và mái tóc hoa râm đến bên tôi “Phải An không?”.
Tôi
nhận ra nhạc sĩ Phạm Duy, ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ đời 1977 màu
cam nhạt, cất hành lý vào khoang xe và trực chỉ về nhà ông ở Midway City, Quận
Cam Cali.
Trên
đường đi từ Los Angeles đến Midway City
vào khoảng gần 1 tiếng lái xe, ông hỏi thăm tôi về cuộc sống mới đến Mỹ ra sao,
và một vài chi tiết thân thế long đong của tôi. Quen biết ông qua sự giới thiệu
của cựu dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ
ông giúp thực hiện một băng nhạc Cassettes. Những bài nhạc tôi viết từ trại tỵ
nạn Hồng Kông cho đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa Kỳ vào tháng 10
năm 1980. Trong đó có những bài như Đêm Chôn Dầu Vượt Biển, Tâm Động Ca, Như
Những Lời Ca Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai Này, Như Một Lời Thề Nguyền…
Khi
nhận được 10 bài nhạc, ông đã nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ và một cuộc
nói chuyện với ông dẫn tôi đến Los Angeles, mà tôi đâu biết đã bắt đầu đưa tôi
bước chân vào giới nghệ thuật. Qua thư trao đổi, ông khen nhạc tôi có nét lạ
của một người vừa vượt thoát từ Việt Nam sau 5 năm dưới chế độ cộng sản, và ông
nhận lời đứng ra làm Producer, nghĩa là nhà thực hiện và sản xuất cho băng nhạc
đầu tay trong đời sáng tác của tôi.
Nhạc
sĩ Phạm Duy và Châu Đình An (1998)
Bước
chân vào căn nhà xinh xắn ở Midway City, tôi được chào đón bởi bà Thái Hằng,
phu nhân của ông với một nụ cười hiền hậu, bà vui vẻ, dễ thương ân cần hỏi han
và chỉ tay trên vách phòng ăn một bức hình tôi ở đấy. Ngạc nhiên thì bà bảo
là “bác trai dán hình cháu để nhận diện đi đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ
thì thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi hay sao mà bố lo lắng ân cần quá!” Mà
cũng dễ nghi lắm, vì khuôn mặt tôi và Duy Minh có phần giống nhau lắm. Tôi cười
và cảm thấy gần gũi ngay với không khí gia đình ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy
Quang đi làm về, lịch thiệp trong quần Jean và áo sơ mi trắng, nụ cười hiền
hậu, Duy Quang thiện cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi đã ăn
uống gì chưa rồi không đợi tôi trả lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê
và thăm phố Bolsa cho biết cộng đồng mình. Mặc cho bà Thái Hằng căn dặn là
chiều về ăn cơm cả nhà.
Đó
là những kỷ niệm đầu tiên của tôi với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy mà tôi còn
nhớ. Đến chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu tiên tôi dự bữa cơm gia đình
gồm có ông bà Phạm Duy và các con Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức,
Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng mới nữa là tôi. Bữa cơm rất ngon vì vui, và
từ lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đình, thân mật, ấm cúng.
Là
một gia đình nghệ sĩ, các con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện thoải mái, đùa
cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có sự kính phục. Đây là một gia đình Bắc Kỳ chính hiệu
có truyền thống và nề nếp. Cho dù 4 chàng con trai (Quang, Minh, Hùng, Cường)
và 2 cô con gái (Hiền, Thảo) đã trưởng thành, nhưng vẫn ở chung với bố mẹ. Nhà
nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều phòng, có phòng thì hai người, chỉ riêng Duy Quang
có riêng một phòng lớn là cái gara để xe trưng dụng thành phòng ngủ, và Duy
Cường có một phòng riêng vì bận làm hoà âm cho nhạc. Ngoài công việc đi làm
thường ngày, nhạc sĩ Phạm Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và
mỗi cuối tuần chơi nhạc tối thứ sáu, thứ bảy tại vũ trường ở Quận Cam thời bấy
giờ.
Tôi
ngụ lại nhà nhạc sĩ Phạm Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện thu âm cho dĩa
nhạc, phải nói là ông rất chu đáo về tổ chức, ngày nào thu thanh ai hát, xem
lại bài nhạc, xem lại hoà âm, và cuối cùng, trong tay chúng tôi có dĩa master
nhạc Châu Đình An, và thời bấy giờ Master băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa
nặng tay.
Nhạc
sĩ Phạm Duy liên lạc với hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc vẽ cho tôi cái bìa băng Cassettes,
chở tôi đến nhà in An Nam của ông Lê Ngọc Ngoạn để xem giá cả và ấn loát, những
buổi đi làm việc như thế chỉ có ông và tôi trên chiếc xe cũ của ông băng qua
những con đường trong sương mù buổi sáng, và trong xe thì luôn phát ra các ca
khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế
nào bên một nhạc sĩ lừng lẫy nghe nhạc của tôi mới ra lò.
Ông
còn thủ bút viết cho tôi những lời sau:
“Nhạc
Châu Đình An vì có nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ là người đại diện cho
những ai vừa vượt thoát từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày trở về dựng cờ Quốc Gia
trên đất nước thân yêu”.
Ký
tên Phạm Duy
Ông
không ngần ngại khen ngợi nhạc tôi viết hay, và ca khúc của tôi nhan đề Tâm
Động Ca do Thái Hiền trình bày đã làm ông xúc động rưng rưng khoé mắt, lời bài
hát tôi viết sau 5 năm tả tơi trong chế độ mới từ 1975 đến 1980:
“Khóc
cho người ở lại Việt Nam
Một
tiếng khóc thương cho đồng loại
Một
tiếng khóc thương em khờ dại
Một
tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có
tổ quốc, mà không có quê hương
Có
đồng bào mà sao xa lạ
Có
Việt Nam
mà tôi mất đâu rồi
Có
giòng sông mà con nước khô cạn
Có
tình yêu mà không có bè bạn
Đứng
bên này bờ biển đại dương
Nhìn
chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn
chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời
tổ quốc trong tim dạt dào
Và
nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt
nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm
biệt
Tổ
quốc thương yêu…
Của
tôi”
(CDA
1980)
Ông
xúc động và chắt lưỡi thốt lên “hay lắm!” không những vì giòng nhạc tôi mà còn
vì giọng con gái ông là Thái Hiền cao vút kết thúc câu tạm biệt tổ quốc thương
yêu của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh của nhạc sĩ Phạm Duy
ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung động thiết tha với quê hương đang đau
khổ. Cứ thế, hằng ngày, những câu chuyện ông kể, từ đời sống âm nhạc của ông,
lộ trình vượt thoát đến Mỹ, và đến nỗi đau đớn dày vò suốt bao năm tháng dài
khi 4 người con trai còn kẹt lại quê hương. Ông cũng kể là cả hai ông bà in
roneo, loại giấy copy để đóng thành tập nhạc dạy đàn guitar do Phạm Duy biên
soạn để bán kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo cho cộng đồng người
Việt phôi thai hình thành. Ban nhạc gia đình với Phạm Duy, Thái Hằng, Thái
Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là mình không lúc nào quên được cách để kiếm
tiền, hầu có phương tiện tìm cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng, Cường còn lại
quê nhà. Bà Thái Hằng còn cho tôi biết, những ngày bận rộn sinh kế thì thôi,
còn khi về đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra thừ người, đau đớn, ray rứt với
4 người con trai mà ông đang suy tính tìm đủ cách để đoàn tụ.
Ở
đây tôi muốn nói đến tình yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm Duy, cả nhà 10 miệng
ăn, và từ khi còn ở Việt Nam qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn tay của ông làm ra,
từ viết nhạc, viết bài và làm những việc liên quan đến âm nhạc để nuôi sống gia
đình. Các con của ông dựa vào ông, chỉ vì yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá,
do vậy đã dẫn đến tình trạng sau này, là ông đánh đổi tất cả sự nghiệp âm nhạc
tiếng tăm, để chọn một lối thoát kinh tế cho các con khi về sinh hoạt trong một
nước Việt Nam do cộng sản cai trị.
Đây
là một sự thực mà ít ai hiểu được.
Trong
email với nhà báo Hoàng Lan Chi, khi chị đề cập về thái độ và lời nói của ông
trong các cuộc phỏng vấn của báo chí “lề phải” trong nước, đã dấy lên sự phản
ứng bất bình của cộng đồng hải ngoại, về những bức ảnh ông cầm tấm thẻ “chứng
minh nhân nhân”, “chứng minh hộ khẩu”, tôi đã trình bày cho chị về những điều
tôi biết, và nhà báo Hoàng Lan Chi, một người quen biết với gia đình ông.
Chế
độ Việt Cộng và nhạc sĩ Phạm Duy chơi “game” với nhau, cả hai lợi dụng nhau, và
cả hai đều có đường tính toán khác nhau. Chắc chắn một điều là Phạm Duy không
thể nào theo cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, và ông đã nhận ra chế độ hiện nay ở
Việt Nam, không còn thứ cộng sản của thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, mà là cái vỏ
bọc cộng sản che chắn cho cái thực chất là chế độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị
và cái ruột chính vẫn là mô hình tư bản kinh tế, hay rõ hơn là tham nhũng, bán
tài sản quốc gia làm giàu cho các lãnh tụ và phe cánh. Ông Phạm Duy chọn một
lối đi như tôi đã nói ở phần trên là, lối đi kinh tế cho các con của ông sau
này, mà nhìn phiến diện đó là sự thoả hiệp dễ nhạy cảm phát sinh ra sự chê
trách, chống đối từ phía cộng đồng người Việt quốc gia, cái nôi đã cho ông hít
thở, phát triển gần như toàn diện sự nghiệp âm nhạc của ông. Do vậy, người ta
giận dữ cũng chỉ vì tiếc cho ông, một tài năng, một biểu tượng văn hoá còn sót
lại của Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi
đoan chắc là chỉ vì quá yêu thương các con, ông đã chọn về Việt Nam trong chế
độ độc tài hiện hữu để có ba việc:
Thứ
nhất: Cái
chết của vợ là bà Thái Hằng đã làm ông hụt hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về
cuộc đời tình ái phiêu lưu thêu dệt của người nhạc sĩ, nhưng, có lần ông cho
tôi nghe ca khúc “Nắng Chiều Rực Rỡ” mà ông bảo là viết riêng cho bà, vì cả
ngàn ca khúc của ông chưa có bài nào viết cho bà. Trong đó có câu “thế kỷ
này, đang trong nắng ban chiều. Cho lòng mình bâng khuâng nhớ nhau”. Ông
bắt đầu cô độc thực sự sau ngày bà ra đi.
Thứ
hai: Người
già cô độc, và đơn chiếc, dễ tủi thân mủi lòng, nếu ông mất sớm vào khoảng 70
tuổi thì thôi không có chuyện nói đến, và bây giờ Phạm Duy vẫn là thần tượng,
nhưng ông sống đến trên 80 tuổi mà quê hương với ngày về thực sự vẫn xa vời
vợi, chế độ cộng sản chưa sụp đổ như bao người trông chờ, không biết đến bao
giờ quay trở lại cố hương. Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn về một lần rồi nhắm
mắt xuôi tay ở cái quê hương khốn khổ đã cho ông nếm trải nhục vinh rồi ra sao
thì ra.
Thứ
ba: Sau
hết là cuộc sống các con, khi ông chết rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề
nghiệp cố định, chẳng ai có bằng cấp gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của
chính ông dạy dỗ, tạo dựng. Và môi trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để
các con sinh sống, làm thầy thì không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi
dụng chính sách gọi là “nghị quyết 36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường máu
tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của ông và các con”, bất chấp sự phản đối, bất
chấp, ông biết là người ta sẽ thất vọng vì sự sụp đổ hình ảnh thần tượng nghệ
sĩ quốc gia nơi ông.
Người
nghệ sĩ Việt Nam
đứng giữa hai lằn đạn của hai chiến tuyến khác nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến
tranh hay hoà bình hiện nay. Và người nghệ sĩ trong một giây khắc xúc cảm rất dễ
trở nên yếu đuối. Vì tâm hồn không yếu đuối, không thể là nghệ sĩ.
Cái
còn lại, tôi nghĩ xa hơn, một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần có nơi nương
tựa, cần có nơi chở che. Cộng đồng hải ngoại là nơi để nương tựa, nơi để thở
than và mong nhận che chở. Dù sao thì, cộng đồng chúng ta ở hải ngoại khi
thương thì hết lòng, khi ghét thì hết tình. Ngay như bản thân tôi về ở Orlando,
Florida hơn 20 năm qua, chuyên làm kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn, mà vẫn không
yên, tôi hiểu con người ta, chỉ có một thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp mũ
và thiếu sự cảm thông. Do vậy, không riêng gì ông Phạm Duy, mà còn nhiều nữa,
cộng đồng nói chung, đôi khi vì quá nhiệt tình, quá sôi nổi, quá bức xúc vì chế
độ cộng sản Việt Nam, do vậy vô tình đã thiếu sự khoan dung, thiếu sự che chở,
không có trái tim bao dung che chở, nương tựa cho những nhà văn hoá, chính trị,
tôn giáo. Cuối cùng, chỉ xô đẩy người ta sống theo cách sống của họ là bất
chấp, và họ trở thành ích kỷ. Điều này đã xảy ra ở các hiện tượng Nguyễn Cao
Kỳ, Thích Nhất Hạnh và bây giờ là Phạm Duy.
Ông
Phạm Duy đã nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con người sống thở
trên cõi đời này. Chắc chắn là các báo lề phải trong nước sẽ có nhiều bài “vinh
danh” ông, ca ngợi sự nghiệp âm nhạc và con người ông. Chế độ cộng sản hiện nay
luôn nhận vơ cho mình những khuôn mặt lớn của văn học nghệ thuật, từ Văn Cao,
Trịnh Công Sơn và bây giờ là Phạm Duy là người của họ, là những kẻ thành danh
do bởi chế độ, hoặc là tài sản chung của đất nước. Bởi vì có mất mát gì đâu,
khi một cái “Game” mà chế độ lúc nào cũng là kẻ thắng bởi vì cầm quyền ban phát
“xin và cho”.
Đây
là một bài học cho giới làm nghệ thuật một khi thoả hiệp trong một trận đấu
“Game”.
Ở
sao cho vừa lòng người
Ở
rộng người cười, ở hẹp người chê!
Châu
Đình An
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.