Tháng tư năm nay lại về,
về như một dấu hằn, dấu mốc, dấu thất lạc, dấu nhớ, dấu vỡ, dấu khắc khoải, dấu
động kinh của 40 năm xưa mà như mới hôm qua. Tháng tư cũng là khởi điểm của những
hành trình hoá thân của bao nhiêu triệu người Việt đã và đang sống ở trong nước
cũng như ngoài nước Việt Nam.
Giống mọi người, Trịnh
Cung đã trải nghiệm một cuộc hoá thân khởi đi từ tháng 4, năm 1975. Bầu trời
ông thở vào thời điểm đó, của miền Nam sau khi thua cuộc, phát ra những tia
sáng mong manh và yếu ớt một buổi chiều chạng vạng. Nó đã ảnh hưởng trực tiếp
vào tâm hồn người cầm cọ, lại vướng tính mẫn cảm của một kẻ yêu và thích làm
thơ như ông.
Ông như người rơi vào vòm đêm rã rượi của tháng tư đen, như chìm trôi
trong cuộc hôn mê suốt 10 năm dài, cuối cùng tỉnh lại và kịp thoát ra khỏi bóng
đêm tuyệt vọng. Ông đã tìm thấy nghệ thuật là cái phao cứu độ đúng như ông đã tự
bạch trong vựng tập của cuộc triển lãm cùng các hoạ sĩ đồng thời như Nguyễn
Trung, Đinh Cường, Nguyễn Phước, Nguyên Khai … tại Houston, Hoa Kỳ năm 2012. “Hội
hoạ luôn cứu chuộc tôi khỏi những vấp ngã, những khủng hoảng tưởng chừng không
gượng dậy được..”
Trịnh Cung – Nghĩ về cái
chết của những chiếc lá vàng ở Công viên Tao Đàn & những người đi ra từ
thành phố đỏ 1 (sơn dầu trên canvas, khổ 200 cm x 150 cm, tháng Ba 2010)
Sau 10 năm buông cọ
ông đã nhận ra sao không biến những đau thương của đời mình thành những tác phẩm
nghệ thuật và từ sự suy nghĩ đó tác phẩm “Những cuộc hoá thân tháng tư” ra đời
năm 1990 như một đứa con mang dấu ấn kinh hoàng không bao giờ có thể quên, như
hệ quả sau một cuộc hiếp dâm tập thể.
Bây giờ chúng ta hãy
cùng theo dõi cuộc chuyển hoá của ông và hoàn cảnh đất nước vào năm 1990 trong
tác phẩm “Những cuộc hoá thân tháng tư”.
Những Cuộc Hóa Thân Tháng 4 (1990) , Sơn dầu
trên canvas, Kích thước: 80cm x 100cm
Nhìn vào bố cục
cân bằng của tranh, chúng ta thấy một lằn ranh màu xanh phân đôi bức tranh làm
hai mặt phẳng, hai miền thời gian hay hai thế giới sắc màu rõ rệt. Lằn ranh ấy
đồng thời miêu tả dáng cong một người phụ nữ bằng một đường ngực và hông, mở ra
một chân trời mát dịu trong màu xanh pha xám lấm chấm xanh ngọc và bạc. Cách
pha màu dịu nhẹ này của Trịnh Cung khiến mới nhìn, tôi có cảm tưởng như ông vẽ
bằng màu nước chứ không phải sơn dầu trên bố. Lạ lắm cái màu, nửa xanh, nửa
xám, nửa lam lại có vẻ trắng bàng bạc mà ông đặt tên là xanh phổ (Prusse Blue)
này, theo tôi, nó diễn tả được những nội tâm phức tạp cũng như những cảm tính bất
định nơi người phụ nữ.
Phía lằn ranh bên phải
gần dưới cùng bức tranh, chúng ta thấy một con chim nhỏ màu bạc đuôi xanh. Phía
trên con chim là một vòng tròn to đỏ, tượng trưng cho mặt trời và trên nữa là một
mảnh trăng lưỡi liềm cũng đỏ. Màu xám bạc chung quanh vầng trăng và trong mặt
trời nâng đỡ cho màu đỏ, khiến người ta nghĩ tới một tế bào máu hay giọt máu hồng.
Màu đỏ cũng dịu nhẹ hơn nhờ sự hỗ trợ của xám và bạc lan toả. Trên nữa là hình
một cái đầu ngựa màu nâu đất. Phía trên cùng góc trái là một đầu trâu. Còn dưới
thấp trông như hình một con dao gẫy. Chung quanh những hình thể người, thú và vật
là những mảng màu trắng bạc (Titanium White), nâu, xám được pha trộn làm nhạt
đi, loãng ra để nổi bật lên màu chính là xanh phổ, đỏ và nâu đất.
Nhan đề “Những cuộc
hoá thân tháng 4” là một dẫn dắt cần thiết cho người xem bước vào nội dung và ý
nghĩa ẩn dụ của bức tranh. Chúng ta hãy đi ngược về quá khứ tháng tư năm 1990 để
nhìn vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam thời ấy sẽ thấy ánh sáng của bức tranh được
soi rọi và hiện ra dần. Trung tâm bức tranh là người phụ nữ mà cũng là cái trục
của cuộc đời xoay quanh. Dáng hình người phụ nữ ấy như ở giữa lằn ranh của hư
và thực và rồi bị đẩy trượt vào quá khứ màu xanh xám. Miền quá khứ ấy là những
kỷ niệm đẹp đẽ để con người hoài niệm và tiếc nuối mà con người lỡ để nó tuột
khỏi tầm tay. Bên phải, trái là những mặt nạ trá hình của lũ đầu trâu mặt ngựa
hiện diện như số phận hay hình hài hoá thân của kẻ dữ trong một thời đại hỗn
mang. Con chim mang ẩn dụ cho số phận nhỏ nhoi của người dân bị thu mình lại. Mặt
trời và mặt trăng bị nhuộm đỏ tức cả nước chìm trong màu cờ đỏ của cộng sản.
Con dao như vũ khí và sức mạnh của miền nam đã bị bẻ gẫy. Đó là phía của người
thua cuộc.
Thoạt nhìn tranh Trịnh
Cung tôi nhận ra được những uẩn ức nội tâm đang được ông dùng những màu sắc nhẹ
và mềm mại thể hiện. Ông sử dụng các hình tượng, chim, người phụ nữ, mặt nạ đầu
trâu mặt ngựa để bộc lộ những suy tư từ lâu bị dồn nén. Ông đã dùng nghệ thuật
Biểu Hiện. Tuy nhiên, vì sinh ra và lớn lên trong thời thịnh đạt của trường
phái lãng mạn, cây cọ của ông thường ảnh hưởng đường nét của nghệ thuật lãng mạn.
Thêm nữa, trong con người ông lại có tố chất của một người làm thơ vì vậy màu sắc
và phong cách vẽ của ông không ít thì nhiều ảnh hưởng tính lãng mạn trữ tình của
thi ca thời ấy. Ông không sử dụng màu dày, hay nổi bật dữ dội. Trái lại, cách
ông pha màu hay chuyển đổi từ màu này qua màu kia, trông rất mềm mại, nhẹ nhàng
và tinh tế. Đã vậy, hình như ông lại muốn vượt thoát ra khỏi ngôn ngữ ẩn dụ của
hình thể, để vươn lên một cái gì mới hơn, vô hình thể hơn, trừu tượng hơn. Do
đó, những mặt nạ, dáng người phụ nữ, con dao, đã trở nên mờ nhạt, không rõ rệt,
mơ hồ và xa rời Biểu Hiện để bước vào thế giới của nghệ thuật Trừu Tượng. Phải
nói là trạng thái nội tâm của ông khi vẽ bức tranh này rất là rất phức tạp, nên
ông đã dùng hình thái nghệ thuật Biểu hiện – Trừu tượng (Abstract
expressionism), để vẽ bức này.
Nói tóm lại, thông điệp
của bức tranh đã nói lên được tâm trạng của Trịnh Cung vào một tháng tư và những
tháng tư sau này. Tâm trạng một người nghệ sĩ tạo hình bất lực trước sự thay đổi
hỗn mang của thời cuộc và đất nước. Ông, một con chim nhỏ, một kẻ lưu vong trên
chính quê hương mình, không biết làm gì hơn là thu mình lại, và cất tiếng hót
vào hư không.