Đêm qua, thằng Thứ, cháu tôi, gọi điện vào báo tin bà Hà mất đột ngột lúc chập
tối. Nó nói, mấy hôm trời trở lạnh, bà húng hắng ho, nhưng vẫn ăn mỗi bữa được
chén cơm. Chiểu hôm qua, bà bảo nấu cho bà nồi nước hương nhu. Bà tắm gội, mặc
bộ quần áo mới, rồi gọi vợ thằng Thứ lên, bảo có câu chuyện muốn nói.
- Bà có cái này từ ngày đi lấy chồng. Giờ bà để lại cho mày, giữ lấy làm của!
Vợ thứ giãy nảy:
- Cháu không lấy của bà đâu. Bà cứ giữ lấy!
Bà Hà mắng:
- Mẹ bố nhà cô! Tao giữ mang xuống mồ à?
- Bà còn sống lâu! Sống trăm tuổi!
- Gớm, định ăn hết của thiên hạ à?
Bà nói thế và nắm chặt tay vợ thằng Thứ, đặt chiếc nhẫn vào lòng bàn tay nó,
hai hàng nước mắt chảy xuống hai gò má nhăn nheo. Rồi bà lả người đi, mắt từ từ
nhắm lại. Vợ Thứ tưởng bà Hà trúng gió, kêu ầm lên, Thứ xoa dầu, ủ ấm, nhưng bà
lả dần, rồi thiếp đi, lay gọi thế nào cũng không tỉnh. Bà Hà ra đi nhẹ nhàng,
thanh thản như vào giấc ngủ.
Hơn sáu chục năm trước,
Hà là cô gái xinh đẹp ở xóm Trại. Bố mất sớm, mẹ thủ tiết nuôi con. Nhờ tần tảo
với ruộng dâu nong tằm, mẹ con có cái ăn cái mặc.
Năm 1953, Hà vừa tròn 17 tuổi, có người làm mai làm mối, lấy anh Quỳnh, con bà
Chức ở xóm Dè. Bà Chức chồng cũng chết sớm, một mình nuôi đứa con trai, hơn Hà
ba tuổi. Cùng cảnh cùng làng, và thấy hai đứa cũng đẹp đôi, mẹ Hà nhận trầu cau.
Bỏ ngõ xong, tết mùng năm , nhà trai đi sêu một cặp cá đé, ông chú ruột
Hà chê: “Sau phần xương một phần da ba phần thịt”. Nhà trai xin cuối
năm cưới, ông chú giao hẹn: “Đám cưới phải cỗ bàn đàng hoàng,
chứ như đi sêu là không xong!” .
Thế là Quỳnh đăng lính. Bấy giờ làng tôi lập tề, nghĩa là theo Tây, một số thanh niên nhảy rào, ra vùng tự do theo Việt Minh, một số đi lính cho Tây. Quỳnh đi lính để có tiền cưới vợ.
Đám cưới Quỳnh tổ chức cuối năm 1953, bằng tiền bốn tháng lương lính Quỳnh tích cóp được, cỗ bàn tinh tươm. Ông chú ruột Hà , uống rượu say, ngất nga ngất ngư, gọi vợ chồng Hà đến trước mặt. Mọi người hồi hộp thót tim, tưởng ông lại bắt bẻ chuyện gì. Nhưng ông tỏ ra tỉnh táo lạ thường. Ông nói chậm rãi như , như rút từng lời từ gan ruột mình: “Quyền huynh thế phụ, cha chết còn chú! Chú chỉ có một nhời, là đã lấy nhau thì phải giữ trọn đạo vợ chồng, không được bội bạc nhau”. Ông dừng lời, móc túi lấy chiếc nhẫn đưa cho cháu gái: “Chú nghèo, chỉ dành dụn được chỉ vàng, cho cháu làm của hồi môn, để cháu đỡ tủi thân!”.
Vợ chồng Hà quỳ xuống lạy chú. Bấy giờ mọi người mới hiểu tấm lòng người chú ruột giành cho đứa cháu gái mồ côi sâu đậm nhường nào. Nó mộc mạc như gốc tre, bụi ruối quê nhà!
Cưới vợ cuối năm 1953, đầu năm sau kết thúc chiến tranh. Từ bốt Vũ Hạ, Quỳnh cởi vội bộ quần áo lính về làng, giữa lúc dân quân du kích đang lùng bắt ngụy quân ngụy quyền. Quỳnh chạy bán sống bán chết, bơi qua sông Cầu Nghìn trốn sang Vĩnh Bảo, ra Hải Phòng di cư vào Nam , không khịp tạm biệt ai, không biết đã bỏ lại đứa con chưa đầy năm tuần tuổi.
Đầu tiên chị phải ra công an xã khai báo, rồi làm bản cam kết cắt đứt quan hệ với kẻ theo giặc vào
Chị Quỳnh không biết chữ, lão Rộc , phó chủ tịch xã, phát cho chị
quyển sổ “Nhật ký tu dưỡng”. Quyển sổ có 12 trang , biểu hiện 12
tháng trong một năm, mỗi trang chia thành 4 ô , biểu hiện bốn tuần
trong một tháng, và mỗi ô có ba vòng tròn, tô ba mầu đỏ, vàng, đen.
Hàng tuần chị Hà mang “sổ tu dưỡng” lên gặp Rộc. Lão nhận xét, nếu tiến
bộ thì đánh dấu cộng vào ô màu đỏ, trung bình thì đánh dấu
trừ ô màu nâu, không tiến bộ thì đánh dấu hỏi vào ô màu đen.
Một tháng mà bị hai vòng đen là phải học chính
trị một vài ngày , bị bốn vòng đen phải đi lao động cải
tạo một tuần. Số phận những người có chồng con đi lính cho Pháp , sau hòa
bình di cư vào Nam , ở quê tôi đều như vậy cả, nhưng chị Hà khổ hơn vì chị còn
quá trẻ và xinh đẹp.
Mười sáu, mười bảy tuổi, Hà đã xinh nhất làng. Khi có con, tuổi đôi mươi, cơ thể phát triển hài hòa càng đẹp. Chị có khuôn mặt trái xoan , đôi mắt đen huyền, vừa dịu dàng mộc mạc , vừa đài các kiêu xa. Dù con nhà nông chân lấm tay bùn, nhưng trời phú cho chị thân hình thon thả, thắt đáy lưng ong , nổi bật những đường cong quyến rũ và nước da trắng trẻo mịn màng. Người ta nói gái một con trông mòn con mắt! Chị Hà không chỉ làm mòn con mắt, mà khiến bao chàng trai tân làng tôi ngày ấy chết mê chết mệt!
Lão Rộc , năm ấy đã ngoài ba mươi tuổi, chưa có vợ con, người thấp lùn, đi khạng nang khạng nể, vì nghe đâu đã từng mắc bệnh giang mai. Mặt lão rỗ tổ ong , đôi mắt sâu hoáy , tương phản với cái miệng hô, hai hàm răng vẩu vàng khè cáu thuốc lào . Rộc vẫn tự đắc, cho rằng mình bảnh trai , danh giá nhất làng. Rộc tự phụ như vậy, vì Rộc thuộc thành phần cốt cán, là đảng viên. Thời ấy người ta nói, ngọc còn có vết, chứ đảng viên thì không! Dẫu nó méo mó thế nào cũng vo tròn, đánh bóng như gương.
Thân phận những người như chị Hà khốn khổ vì sự dả dối đó. Phải cắn răng chịu đựng sự dày vò đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần , không được kêu than, nói ra sự thật.
Thực chất, khuôn mặt Rộc xấu xa một , tâm địa xấu xa mười,
nhưng ai cũng phải khen lão tốt. Chị Hà phải âm thầm chịu đựng
sự bỉ ổi mang đậm bản năng thú vật của lão.
Mỗi lần chị Hà lên xã trình diện, lão lại cười cợt tán tỉnh. Hắn bảo: “
Tôi thương cô thành phần cơ bản, lấy phải thằng chồng chó má, phản quốc
hại dân, trên đời này không gì xấu xa bằng. Bỏ thằng khốn đó
đi, tôi giúp làm lại cuộc đời!”
Rộc chõ miệng vào mặt chị Hà cười nhăn nhở, phả ra mùi khói thuốc lào hôi hám. Có khi lão chộp năm ngón tay ngắn ngủn , sần sùi vào ngực chị. Chị Hà né tránh, lão ôm ghì lấy chị , cắn vào ngực chị như con quỷ. Chị không dám kêu , người co rúm, run rẩy, tim thót lại, nước mắt ứa ra.
Những lần như thế, cuốn “nhật ký tu dưỡng” của chị được đánh dấu
cộng, đỏ như máu . Từ trụ sở xã ra, chị bước thất thểu, rã
rời . Đêm chị ôm con khóc.
Chị Hà không có bạn bè để chia sẻ. Chị muốn tìm những người cùng cảnh ngộ chia
sẻ nhưng bị cấm. Chị chỉ còn niềm an ủi là mẹ đẻ, mẹ chồng, đứa con thơ và người
chú ruột thịt.
Để quên bớt nỗi cô đơn, buồn tủi và nhục nhã, chị Hà lăn xả vào công
việc. Từ cày , bừa, gieo cấy, hái dâu nuôi tằm đến làm cỏ , bón
phân, mò cua, bắt ốc Chị làm đầu tắt mặt tối , không quản nắng mưa. Chị
tự đày đọa mình để nhan sắc phai tàn, khỏi ai nhòm ngó, khỏi phải
chịu nỗi khiếp sợ lão Rộc đeo bám!
Năm 1960, phong trảo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở quê tôi rầm rộ bùng lên. Tiếng trống ếch rập rình . Cờ đỏ rợp trời. Đường làng, ngõ xóm nhộn nhịp ngày đêm. Những cuộc họp ra mắt ban quản trị, kết nạp xã viên, những buổi liên hoan vui không thể tả.
Gia đình chị Hà, cũng như những gia đình thành phần địa chủ, phú nông , hoặc có chồng con theo giặc vào
Con cháu không được vào đoàn , vào đội, không được tham gia sinh hoạt cắm trại, hội hè, và dù có học hành giỏi giang cũng không được vào trường trung học, cao đẳng chứ đưng mơ đại học. Trong lý lịch mà ghi “ thành phần cá thể” thì xin một cái giấy thông hành từ quê ra Hà Nội cũng khó.
Mỗi ngày chị ra chợ đong ba thừng thóc, về cùng mẹ đẻ, mẹ chồng xay , giã sàng xảy lấy gạo bán. Một thùng thóc mười đấu , xay giã được bảy đấu gạo, có khi gặp thóc non chỉ được sáu đấu rưỡi. Tiền bán gạo đủ đong lại ba thùng thóc khác, lời tí tấm nuôi bốn miệng ăn, tí cám nuôi lợn và tí trấu nhóm bếp. Những ngày không làm được hàng xáo, mẹ con bà cháu ăn cháo, hoặc ra đồng nhổ cây tầm khúc về giã nhỏ làm bánh tầm khúc ăn thay cơm. Những đêm đông rét cắt da, bốn con người rúc trong cái ổ rơm thay chăn nệm.
Năm này, tháng nọ cuộc sống của gia đình chị Hà trôi đi chậm chạp, lặng lẽ như những cánh bèo trên dỏng kinh Cầu Đá tù đọng hôi thối nhày nhụa . Ba người đàn bà, một trẻ hai già cố chăm chút cho đứa con trai của người đi xa .
Thằng Quảng mỗi ngày mỗi lớn, giống bố như đúc. Nhiều
lần nó hỏi bố tên gì, đi đâu, chị Hà và bà nội bà ngoại nói quanh ,
cố dấu , để nó khỏi mặc cảm
Tết trung thu năm ấy, thiếu niên nhi đồng trong xóm rước đèn ông sao rồi ra sân đình liên hoan phá cỗ. Thằng Quảng bắt mẹ mặc áo đẹp lũn cũn chạy theo. Nó vô tư len vào chỗ liên hoan , bị môt thiếu niên véo tai lôi ra , quát : “ Mày là con thằng ngụy quân theo giặc không có phần !” Thằng Quảng khóc chạy về. Từ đó trong ánh mắt thơ ngây của nó lởn vởn hình bóng một kẻ thù . Hình bóng ấy mỗi ngày một đậm nét qua những bài học từ vỡ lòng đến lớp một, lớp hai thầy cô nhổi nhét vào đầu nó. Nó căm thù những người di cư vào
Cuộc chiến phá hoại của Mỹ leo thang ra miền Bắc . Bắt đầu từ cái ngày 5-8-1964 ấy, những gia đình có người di cư vào
Thương đứa cháu đi vào chốn bom đạn, mẹ chồng và mẹ đẻ chị Hà héo hon, sinh bệnh, lần lượt qua đời, bỏ lại mình chị chơ vơ như cây gáo mồ côi ở đầu bờ ruộng rộc.
Một đêm trên sân kho hợp tác , chị Hà nằm trên đống rơm tươi , ngửa mặt lên
trời. Bầu trời đầy sao , nhấp nháy trong sương mờ ảo. Chị có cảm
giác những vì sao đang khóc, và nước mắt các vỉ sao ướt đẫm cả bầu trời . Tiếng
khóc hòa vào tiếng kêu của bầy dế chung quanh sân kho, như một bản nhạc buồn tê
tái.
Chị nhắm mắt lại, bầu trời càng hiện ra thăm thẳm , mang nặng tâm trạng ưu tư của chị. Đời chẳng giành cho chị chút may mắn nào. Mười bảy tuổi lấy chồng , chưa đầy mười tám tuổi sinh con . Mười bảy năm tần tảo nuôi con, nuôi mẹ đẻ, mẹ chồng . Chị không có tuổi xuân, đúng hơn tuổi xuân bị vùi dập trong ngèo đói, cô đơn, tủi nhục. Chị không được học hành, nghĩ ngắn, nhưng chị vẫn cảm thấy thân phận mình khổ hơn nàng Kiều. ..
Chị Hà đang mơ màng trong những suy nghĩ mông lung như thế, thì một bóng đen ập xuống người chị. Chị nhận ra tiếng cười, mùi thuốc lào và những ngón tay sần sùi của lão Rộc. Mười bảy năm qua, Rộc vẫn không buông tha chị, nhưng hắn vẫn không sở hữu được chị. Trong trái tim chị, hắn vẫn chỉ là một loài cầm thú!
Một buổi sáng mùa đông 1972, chị Hà đang nhổ mạ cùng mấy xã viên, thì chú ruột chị tất tưởi chạy ra đầu bờ. Ông vừa nói vừa thở đứt quãng:
- Cháu ơi! Thằng ... Quảng... nó...
Chị Hà buông nắm mạ hỏi:
- Nó làm sao hả chú?
Ông chú khóc òa:
-
Nó hy sinh ở Quảng Trị rồi!
Chị Hà đứng lặng như chết trân giữa ruộng mạ. Từng cơn, từng cơn gió mùa đông bắc lạnh cắt da cắt thịt rít lên, làm xổ tung mái tóc gần như đã bạc trắng của người phụ nữ mới ba mươi lăm tuổi.
Từ ngày ấy bà Hà chỉ còn nỗi khắc khoải duy nhất là chờ tin ông Quỳnh.
Nhưng năm tháng qua đi vẫn biệt vô âm tín. Ông Quỳnh đã chết hay phiêu bạt chân
trời góc biển nào không một hồi âm.
Người ta nói, con người ta sướng nhất là khi về già được ra đi thanh thản, mà
muốn được như vậy phải ăn ở hiền lành, ba Hà là một người như vậy. Cầu
hương hồn bà dưới suối vàng bình an!
MINH DIỆN
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.