Wednesday, April 8, 2015

Người bán sách trên bãi biển Nha Trang

image
https://www.youtube.com/watch?v=1NZoZ-hvuBk&app=desktop
Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng
bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài
Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ
tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà.
Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù
cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn
cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới
tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm.
Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho
cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm
1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ
hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa
trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ
dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo
ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm
rồi, có biết bao sự đổi thay.
Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái
ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha
tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế
mới này đa số là dân thành phố bị cưỡng bách “tự nguyện” lên đây, một
số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù
cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ
đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã
rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm
suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay
đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số
đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa.
Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người xưa
khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm.
Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu
kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về
an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại
tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút
gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn
ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân
cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước,
thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm
dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi
xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên.
Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường
cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không
những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây
phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút
gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất
giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái
ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có
mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để
hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một
mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội
mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo
bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước,
nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát,
một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ
thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi
trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi
vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn
là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước
lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm
răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi
tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách
trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn
sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic.
Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình
Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh
mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất
lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở
nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi
thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở
Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã
giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và
móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình
giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện
cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như
anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn
nhiều người khốn khổ hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy
anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại
cho tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật
đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm
phơi nắng trên hàng ghế phía trước.
Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ
lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời
nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có
cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi
bất ngờ được gặp.

Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này tôi mua vé và
nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người
đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại
Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới..
Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu
trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống
để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu
lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi
thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát,
tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về
hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách
sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê
lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán
sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con
người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ
làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người
tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy
người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi
thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói
cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói vơiù tôi  “Cám
ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”.
Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người
nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng
bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ
ngoài khơi đổ vào bờ.
Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng
vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ
xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai
đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn
con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán
sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại
trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả
thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là
người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu
hắn đã  “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó
rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải
là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo
người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng
thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại
quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và
khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm
bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! ”
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân
la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với
những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm
sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và
cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm
một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua
này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn
tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im
lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một
chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã
dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ
tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân
thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy
nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi,
anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh
ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng,
một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu
đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh
nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều
chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để
dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình
cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm
dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ
địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được
giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục
huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban
đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh,
nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò
Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng
hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974,
xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải
phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia
đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu
bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha
chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc
xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo
ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
- Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị
bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận
Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải
đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại.
Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu
và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh
bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai
tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào
hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết
thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không
nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ
tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động
trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy
nhất của anh.
- Anh không còn bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có
trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không
quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu.
Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ
thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có
thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương
vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm
cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng
lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em
gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm
ảnh
. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá,
vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén
hương thâàm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới
chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ.
Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là
sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen
quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè
ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề
quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi
choáng ván, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt.
Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là
An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm
ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo
trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng
hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên
xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc
sụt sùi.
 Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn
đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em
tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp
nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi
đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm
được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm
hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi.
Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ
của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh
chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm
được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng
một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ
có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô
gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi
xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp
lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn
cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi
lần.
An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là
một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau
ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt
vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi
già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau
đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui
Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về
phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ
quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu
với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di
cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó
yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi
lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền
mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy
học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa,
chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau
ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai
tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói
với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh.
Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho
cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai
lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi
trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân
của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn
chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh
viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo
khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ
rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây
lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị
tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên
bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với
chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng
sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm,
và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả
tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con
hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và
Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị
nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một
ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em
kết nghĩa và từ nay Trang là ngưỡi thân quen duy nhất của tôi còn lại
ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký
trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người
thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.

Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà
mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ
cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái,
đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một
ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin
phó thác tất cả ở nơi Ngài.
…….
Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn
có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm
đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày
gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương
rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình
ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao
giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của
nàng
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả
cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một
người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được
biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh.
Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn
nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và
cho những kỷ niệm của chúng mình..

Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình
đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”,
đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu
nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên
Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và
xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi
vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về
quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của
em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ
thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc
theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ
sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy
nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát
cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà phải xây trên máu
xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã
từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này.
Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước
mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe
trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát
thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm
khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này,
ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi
trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.



Phạm Tín An Ninh

*****

Dec 17, 2014
Tôi đã ở trong trại cải tạo nhiều năm trời nên đã hiểu một cách rất rõ thế nào là cái đói trong những ngày tháng đen tối đó. Hãy nghe BS Trần Vỹ kể chuyện tù tội của ông: Một buổi xế trưa, khi đến bệnh xá để lấy thuốc cho các ...

Aug 01, 2013
Bài Đọc Suy Gẫm: Cải Tạo Ngược. Khi cán bộ cộng sản hát kinh “Veni creator” của đạo Công Giáo thì người bị tù, đã cải tạo ngược lại những người cai tù. Nhân dịp tháng 7 năm 2013, Tòa thánh Vatican bế mạc (đóng lại, ...

Apr 14, 2011
Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên trong xã hội mới cả. Cho tới khi ...

Jan 12, 2015
Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được. Cứ thế ...

Mar 30, 2013
Năm 1985 anh em tù “tập trung cải tạo” được tự do mới trở về thăm chiến hữu. Năm 1990 hải ngoại bắt đầu nhớ tới nghĩa trang Biên Hòa. Đại tá Lê Đình Luân luẩn quẩn trên nghĩa trang mấy ngày trước khi HO qua Mỹ. Ông ...

Oct 11, 2014
Buổi sáng hôm đó, tôi thức dậy sớm, chuẩn bị đi trình diện cải tạo. Lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Chuyến đi lành ít, dữ nhiều. Phải chăng đây là những giây phút cuối cùng bên vợ dại con thơ. Tương lai mịt mờ, biết ra sao ...
Aug 28, 2014
Tại trại cải tạo trong thời gian bị “biệt giam” 22 tháng trong “thùng conex” [2] với lời buộc tội: “Tướng lãnh, sĩ quan xong giặc rồi là hết, còn anh vẫn lưu lại tư tưởng phản động qua tác phẩm….”. Cán bộ trong trại chắc cũng ...

Aug 04, 2011
Tôi khai quen biết anh Phong ở trại cải tạo Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai do Phong còn độc thân, ba Phong bị đau bao tử nặng nên gửi đồ thăm nuôi nhờ vợ tôi mang giùm vào trại trao đồ tiếp tế cho Phong. Chúng tôi quen ...

Oct 24, 2013
Cán bộ luôn luôn nhắc nhở là “yên tâm cải tạo”, làm sao mà yên tâm, khi gia đình còn lắm việc bộn bề, vợ con không biết sinh sống ra làm sao, ngày ra trại chưa được xác định. Thì làm sao mà yên tâm cải tạo được?”.

image

30 Tháng Tư: Hòa bình và hòa giải Dân Tộc
Khuyết tật không phải là giới hạn
Ai là kẻ thù của Việt Nam?
Tháng Tư mãi là nỗi buồn!
Cái chết của những chiếc tàu ngầm
Có cần phi cơ chiến đấu hiện đại?
VTC có 'lỗi nghiệp vụ' ở phóng sự hút shisha
Chất thôn dã Việt trên đất Mỹ
Gian lận để hưởng trợ cấp
Có thật là người Pháp làm ít chơi nhiều?
Xu thế: ghét Trung Cộng
Những phi công tự tử trong lịch sử hàng không
50 năm nhìn lại Phong Trào Du Ca Việt Nam
Suy nghĩ của giới trẻ trong nước về Việt Nam Cộng ...
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được trao giải Tự Do Ngô...
Bốn cách đơn giản để gây dựng lòng tin
Hà Nội như bị vặt lông
Cưỡi Ngọn Sấm _ Ride The Thunder
Ðàn ông Việt Nam và con lợn
Mục tiêu của phê bình
Di dời giáo xứ Đông Yên, nỗi lòng kẻ ở người đi
Ở nơi sâu nhất địa cầu
Đồng hồ thông minh Apple Watch
Bệnh & Hỏi đáp y khoa
Công an Việt Nam và quyền bắt người
Ngắm hoa anh đào ở 10 nơi trên thế giới
Ai Cập huyền bí
Nguyễn Tấn Dũng quá bẽ bàng tại thủ đô Canberra
Nghỉ hưu làm gì
Chuyện trào phúng: chủ nghĩa xã hội ưu Việt
Người Việt về thăm quê hương chú ý!
Thân gởi các em dư luận viên (DLV)
Câu chuyện về gia đình cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
Vì sao chúng ta lại ngoáy mũi?
Người con gái Việt Nam trên đại lộ Ayutthaya
Người Tị Nạn và Việt Kiều
8 điều về thiên nhiên kỳ bí
Có chăng món ăn kích dục
Những tranh cãi quanh vụ “Qua Mỹ du lịch sanh con”...
Bởi vì tấm vải che tử thi không có túi

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.