Ông Trần Đình Trường, công
dân Mỹ gốc Việt, chủ nhân khách sạn Carter, ngay Quảng trường thời Đại (Times
Square) nổi tiếng của Nữu Ước. Ông Trường từng nhiều lần được nêu danh
là mạnh thường quân trong sinh hoạt cộng đồng người Mỹ gốc Việt, qua những
lần có các cuộc biểu tình lớn trước trụ sở Liên Hiệp Quốc quy tụ đông đảo người
Việt trên toàn nước Mỹ kéo về; cũng như nhân các cuộc diễn hành văn hóa hàng
năm tại thành phố này.
Ông Trường qua đời
năm 2012 vì bệnh tim, để lại một gia tài hàng trăm triệu Mỹ kim nhưng
không có di chúc, dẫn đến vụ kiện tụng tranh chấp tài sải giữa nhiều người
đàn bà cùng khai là vợ ông cùng với một đàn con cháu. Hồ sơ vụ kiện này hứa
hẹn còn dài, và câu chuyện vừa được nhật báo New York Times tóm lược qua bài
phóng sự điều tra của ký giả John Leland, nguyên văn “Mr. Tran’s Messy Life and
Legacy” đăng hôm 24/7/2014 vừa qua.
Nay đã ở bên kia thế giới, ông Trường lại
là đối tượng mổ xẻ, nghiên cứu vì là trung tâm của một lô những lời khai mập mờ,
nhất là trong cuộc tranh đấu quyết liệt của những người đang giành giật để được
kế thừa khoản tiền của ông - như một thành viên trong gia đình ông mô tả
"ai cũng là bậc thầy trong chuyện dối lừa và vô cùng xảo quyệt khi cố bán
cái gọi là sự thật của họ." Hồi tháng Năm vừa qua, một thẩm phán của Tòa
Gia Đình phán quyết rằng, chuyện một trong những phụ nữ có liên hệ với ông Trường
từng khai trong hồ sơ thuế của bà ta là độc thân không ảnh hưởng gì đến chuyện
bà ta khai đã kết hôn với ông, và vì vậy có quyền hưởng một nửa tài sản ông ta
để lại.
Phán quyết này đã mở đường dẫn đến một cuộc chiến trước Tòa liên quan đến
30 hoặc nhiều hơn nữa, những người nhận là thừa kế và chắc chắn phải mất nhiều
năm mới giải quyết được. Tất cả những người liên quan đến vụ tranh chấp tài sản
này, hoặc qua luật sư hoặc trực tiếp, đều từ chối lời yêu cầu phỏng vấn cho bài
phóng sự này, nhưng họ đều đã kể chuyện của mình trong một núi tài liệu nộp trước
tòa. Duy nhất một điều không khác biệt trong quan điểm của tất cả mọi người dự
phần trong cuộc tranh chấp này là “kẻ khác đang nói dối.”
Ông Trần Đình Trường
bên phải và bà Nguyễn Sang
Chi tiết mà mọi người đồng thuận là ông Trần Đình Trường sinh ngày 05/1/1932
trong một gia đình Công giáo ở Hà Tĩnh, Bắc phần Việt Nam. Chỉ thế thôi, còn
các sự kiện sau đó đầy dẫy những chuyện mù mờ khó chứng minh rành rọt. Năm
1950, ông Trường gặp một phụ nữ tên là Thị Ngũ. Hai người lấy nhau qua một hôn
lễ ở nhà thờ và cuối cùng đã có bốn người con với bà này. Thế nhưng hai người
không có hôn thú, mà theo các thành viên trong gia đình là “chuyện bình thường
trong thời kỳ loạn lạc chiến tranh Việt Nam, giấy tờ nào cũng có thể bị mất”.
Sau khi có hiệp định Geneve chia đôi đất nước năm 1954, ông Trường và cha bị nhà cầm quyền Cộng sản miền Bắc bắt giam. Sau hai năm tù ông được thả nhưng người cha chết trong tù. Sau khi được thả, ông Trường đã liều mình bơi vượt sông Bến Hải vào Nam, với hai bàn tay trắng chỉ có “vài chiếc quần đùi”. Từ đó ông không gặp lại bà Ngữ cho đến hơn 40 năm sau.
Bà Hưng (cầm tấm bảng
tri ân), một trong những người phối ngẫu của tỷ phú Trần Đình Trường; người mặc
áo tím (bên trái) là bà Bội Cẩm, ái thiếp của tỷ phú Trần Đình Trường.
Ở miền Nam ông Trường sống không phải với một phụ nữ khác mà “cùng lúc nhiều
người đàn bà” như lời khai của 1 người trong cuộc là bà Nguyễn Thị Hưng, nộp
trước Tòa sau khi ông qua đời. Bà Hưng khai “thời đó, chuyện 1 người đàn ông có
quan hệ với nhiều phụ nữ không phải là vợ, là chuyện hết sức bình thường”. Suốt
thời gian này ông Trường luân phiên sống với tất cả những người phụ nữ có quan
hệ với mình cùng với con cái những bà này. Marc Bogatin, từng là luật sư đại diện
cho ông Trường, bây giờ đại diện cho một trong những con gái của ông nhận xét rằng
“Ông ấy cố gắng làm người cha cho tất cả các con của mình, và đối với một người
có rất nhiều con thì người như ông Trường thật là người cha tận tâm.”Năm 1959, ông Trường gặp cô thiếu nữ mới 16 tuổi tên là Nguyễn Sang khi cô này chiếm vương miện Hoa hậu trong cuộc thi do tờ báo Phụ Nữ Ngày Mai tổ chức. Theo các lời khai của bà Sang thì hai người lấy nhau ngày 1/1/1960 qua một hôn lễ dân sự và hai người sống chung từ đó cho tới khi ông ta qua đời. Bà Sang khai hôn lễ chỉ có các viên chức lục sự chứ không có khách khứa nào và có 3 con với ông Trường khi ở Việt Nam, sau đó có thêm con thứ tư sinh ở New York. Tương tự trường hợp bà Ngữ, giấy tờ chứng minh tình trạng vợ chồng của bà Sang là điều tranh chấp trước Tòa. Lời khai của các bà vợ khác biệt ở chỗ người thì khai thời trẻ ông là người nghèo mạt không một xu dính túi, còn người thì khai ông đã giàu có, nhưng tất cả đều đồng ý ông ta là người chăm chỉ làm ăn và giao thiệp rất rộng rãi.
Ông Trường khởi nghiệp ở miền Nam bằng nghề mua bán hàng hóa,
quân trang quân dụng, sau đó ông lập công ty vận tải lớn nhất của miền Nam lúc
đó, mở rộng với 24 thương thuyền, hàng trăm xe tải và làm chủ cả một bến cảng.
Bà Sang khai mình là người đã giúp ông bắt đầu các công ty, đầu tư tiền bạc và
từng là phó chủ tịch Hội đồng quản trị các doanh nghiệp vận chuyển và sau đó là
phó chủ tịch kinh doanh khách sạn của ông ở New York.
Hình ảnh nộp kèm hồ sơ tòa án cho thấy một ông Trường bà Sang là cặp vợ chồng hạnh phúc và thịnh vượng, cùng với con cái. Chuyện kinh doanh làm giàu của ông Trường phát đạt nhờ chiến tranh ở Việt Nam những năm 1960 và 1970.
Nguy cơ sụp đổ của miền Nam năm 1975 khiến ông Trường lo sợ cho sinh mạng bản
thân và tài sản kếch sù, khiến ông thấy cần phải hành động nhanh chóng.
Trong một bản tự sự của ông Trường, được bà Sang nộp kèm hồ sơ có đoạn viết “dù tôi hiểu những rủi ro nghiêm trọng nhưng tôi đã ngay lập tức gửi tàu đến các cảng Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, và ra lệnh nhân viên phải hết mình giúp những người Mỹ lúc ấy đang bị đe dọa.” Ông viết, cả thảy các tàu của ông đã cứu được 8,520 gồm dân thường Việt Nam và cả kiều dân lẫn quân nhân Mỹ.
Trong một bản tự sự của ông Trường, được bà Sang nộp kèm hồ sơ có đoạn viết “dù tôi hiểu những rủi ro nghiêm trọng nhưng tôi đã ngay lập tức gửi tàu đến các cảng Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, và ra lệnh nhân viên phải hết mình giúp những người Mỹ lúc ấy đang bị đe dọa.” Ông viết, cả thảy các tàu của ông đã cứu được 8,520 gồm dân thường Việt Nam và cả kiều dân lẫn quân nhân Mỹ.
Tuy nhiên lời tự thuật này của ông Trường bị nhiều người bác bỏ. Theo Richard L. Armitage, người giám sát cuộc di tản của hải quân Mỹ lúc ấy thì trên tàu của ông Trường không hề có lính Mỹ được di tản, và rằng, lực lượng Hoa Kỳ không hề dùng tàu buôn để giải cứu và di tản kiều dân Mỹ.
Ông Trường thường kể rằng ông ta di tản với 2 va li đầy vàng vì không kịp rút tiền khỏi ngân hàng. Trong một cuộc phỏng vấn của báo The New York Times năm 1994, ông nói số vàng đem theo trị giá "có thể là một triệu đô la", sau đó sửa lại rằng giá trị "dưới một triệu đô la."
Nhưng Nguyễn Văn Thanh, một thiếu niên khai là đã được ông Trường nhận làm con nuôi ở Việt Nam, thì khai đã rời Việt Nam cùng con tàu với ông Trường và được giao xách theo hai va li, “một chứa khoảng 7 triệu Mỹ kim tiền mặt và va li kia chứa khoảng 25 kg vàng” tất cả đều của ông Trường. Bốn phụ nữ có con với ông đều di tản, hoặc cùng ông trên một con tàu, hoặc trên những chiếc tàu của ông.
Khi ra đi, ông cũng để lại Việt Nam cho bà Ngữ và các con bà này một khoản tiền mặt và vàng “nhiều ngoài sức tưởng tượng tính theo giá trị ngày nay” (theo lời khai của một trong những con trai của bà này sau đó). Sau khi đã yên ổn tại Hoa Kỳ, ông Trường vẫn thường xuyên định kỳ gửi tiền và quà cho gia đình bà Ngữ ở VN.
Tại Mỹ, ông Trường đưa đại gia đình tới New York, và năm 1975, ông mua khách sạn
đầu tiên là Hotel Opera 23 tầng, toàn là phòng chiếc, trên đường 77 khu
Broadway. Tại khách sạn này ông lấy hẳn 1 tầng để sống cùng bà Sang, các con bà
này và hai người tình Nguyễn Thị Châm và Phan Hoa, theo lời khai của 1 người
tình khác, bà Hưng. Bà Hưng nói bà từ chối không chịu ở chung với những người
khác nên sống riêng với con mình ở tầng khác.
Ngược lại bà Sang thì trong hồ sơ khai trước Tòa phủ nhận chuyện ông ta đã sống luân phiên với những phụ nữ khác. Với cuộc sống (bận rộn) gồm cả chuyện kinh doanh và xoay vòng với các gia đình, ông Trường vẫn đều đặn dự thánh lễ mỗi ngày tại nhà thờ Holly Cross ở đường West 42nd St, như lá thư nộp hồ sơ Tòa của Linh mục Peter Colapietro thuộc thánh đường này.
Cách quản trị khách sạn nổi tiếng đặc biệt của riêng ông Trường là cắt giảm tối đa nhân viên an ninh và bồi phòng; với hồ sơ kỷ lục trước Tòa về thành tích vi phạm quy định an toàn vệ sinh và mỗi khi bị truy tố ra Tòa lại dẫn chứng câu chuyện cứu người năm 1975 ở Việt Nam để chứng minh hạnh kiểm và tư cách tốt của mình.
Tháng Giêng 1990,
thành phố New York thắng kiện, tịch thu và dành quyền kiểm soát khách sạn này.
Công tố viên cáo buộc trong khách sạn bọn buôn bán crack chiếm toàn bộ nhiều tầng, cướp của và thậm chí hạ sát nhiều người già chỉ để cướp các khoản tiền nhỏ.
Khách sạn Kenmore tuy tồi tệ như thế nhưng là nhà của bà Châm cũng là người quản lý sống ở tầng nhì với 5 người con có với ông Trường. Ông ta thì sống trong ba phòng tại khách sạn Carter. Ông Trường không hề phủ nhận chuyện buôn bán ma túy lan tràn ở Kenmore, nhưng ông chẳng cần xin lỗi ai về chuyện đó, bởi từng nói với báo The Times hồi năm 1994 rằng “Các khách sạn lớn, Helmsley và Trump đã gửi cho những người xấu đến tôi. Đáng lẽ thành phố nên cảm ơn tôi mới phải vì có công chăm sóc rất nhiều người nghèo và vô gia cư.”
Thành phố New York không đồng ý với chuyện đó. Vào ngày 8/6/1994, Cảnh sát liên bang và thành phố xông vào Kenmore, bắt giữ 18 người và tịch thu khách sạn với lý do đó là một động ma túy lớn và công khai.
Thế nhưng ông Trường và cả gia đình ông không bị buộc bất kỳ một tội nào.
Ông ta đã tranh đấu để cố giữ khách sạn này nhưng không thành công !.......
Yiu Kim
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.