Cuộc
tổng tiến công mùa xuân 1975 của quân đội Bắc Việt xét về phương diện quân sự
là một chiến dịch xuất sắc. Khởi đầu bằng mặt trận Ban Mê Thuột, quân tấn công
đã điểm đúng yếu huyệt làm rung chuyển cả tuyến phòng thủ của Quân Đoàn 2 quân
phòng thủ. Sự sụp đổ lan tỏa dần ra toàn khu vực Tây Nguyên, sau đó toàn miền Nam , một cách
chóng vánh.
Tuy
được ca ngợi là “đại thắng” trong nhiều lời tung hô từ suốt 39 năm qua, chiến
thắng đó vẫn còn dang dở ngay cả khi nhìn từ góc độ của chính bên thắng cuộc,
bởi những lẽ sau đây:
Thứ
nhất, lý thuyết về “chiến tranh nhân dân” luôn phác họa hình ảnh cuộc tổng tiến
công từ bên ngoài của quân đội chủ lực gắn liền với sự nổi dậy của quần chúng
nhân dân khắp nơi bên trong. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Việt đương thời và sau
này đều mô tả cảnh lầm than với tiếng kêu rên xiết của người dân sống trong
vòng kềm kẹp của chính quyền Sài Gòn.
Do
vậy, cùng với đoàn quân mang sứ mệnh “giải phóng”, quần chúng hẳn sẽ đồng loạt
vùng lên lật đổ ách áp bức của “ngụy quyền”. Nổi dậy luôn là khâu mấu chốt của
“chiến tranh nhân dân” và thường được thổi phồng để làm nhẹ đi yếu tố quân sự
lạnh lùng của súng đạn và giết chóc mà đoàn quân cách mạng thường mang đến
những nơi họ muốn “giải phóng”.
Thực
tế của cuộc chiến tranh tiếc thay hoàn toàn khác với lý thuyết đó. Quần chúng ở
miền Nam
đã không nổi dậy, mà thay vào đó là di tản mỗi khi quân Bắc Việt tấn công.
Người miền Nam
vẫn gọi nôm na hình ảnh ấy là “chạy giặc”. Trong các trận đánh Mậu Thân năm
1968, Mùa hè đỏ lửa năm 1972 và trận cuối cùng năm 1975, khi quân Bắc Việt di
chuyển đến đâu, dân chúng vội vàng tháo chạy tán loạn khỏi nơi đó.
Riêng
cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975, lúc Ban Mê Thuột thất thủ, dân ở Tây Nguyên
tháo chạy về Nam bộ, rồi sau đó khi Quân đoàn 1 quân đội Sài Gòn bị xóa sổ, đến
lượt dân Đà Nẵng và Nha Trang bằng hai đường thủy bộ bỏ chạy vào Sài Gòn. Cuối
cùng, từ Sài Gòn và khu vực Đông Tây Nam bộ, dân chúng lên tàu chạy ra Biển
Đông lánh nạn, khởi đầu sự kiện vượt biên có một không hai trong lịch sử nhân
loại. Mọi tầng lớp dân cư Nam
phần khi ấy đều hiện diện trong dòng người tản cư vì chiến cuộc.
Chiến
thắng bằng quân sự, chứ không phải bởi lòng dân đối chọi với chính quyền Sài
Gòn, đã khiến bao nhiêu năm hòa bình tuy đã trôi qua song lòng người vẫn tiếp
tục ly tán, khiến những lời kêu gọi hòa giải và hòa hợp dân tộc càng trở nên
nhạt nhẽo, chướng tai. Một chiến thắng như vậy quả nhiên còn dang dở.
Thứ
hai, ngọn cờ “giải phóng dân tộc” luôn được phía Bắc Việt giương cao trong suốt
cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, mà mục tiêu cuối cùng là đánh đuổi giặc
ngoại xâm. Bên xâm lược được xác định là “Đế quốc Mỹ”, bởi lẽ ban đầu họ đã
viện trợ tài lực cho chính quyền Sài Gòn để phát triển kinh tế và xây dựng quân
đội, sau đó họ mang quân vào miền Nam đánh nhau trực tiếp với quân Bắc Việt.
Nếu
hành động viện trợ vũ khí và mang quân vào một phần lãnh thổ Việt Nam bị xem là
xâm lược như trường hợp Hoa Kỳ, thì sự kiện Liên Sô, Trung Quốc và cả Bắc Triều
Tiên cũng đồng thời viện trợ và mang quân vào miền Bắc cùng cách thức như vậy
có nên được xem là xâm lược hay không? Tiếc rằng bộ máy tuyên truyền Bắc Việt
dường như đã thiếu sót gọi tên những kẻ xâm lược này, mà thay vào đó ban cho họ
một danh xưng mỹ miều là “quân tình nguyện” đến từ các nước anh em.
Tạm
chấp nhận lập luận của bên thắng cuộc để đánh giá một sự kiện khác có phần quan
trọng hơn. Đó là, từ năm 1973, sau Hiệp định Paris ,
quân đội Mỹ đã hoàn toàn rút khỏi miền Nam Việt Nam . Bóng dáng “quân xâm lược” lúc
đó đã không còn. Vậy lẽ ra ngọn cờ “giải phóng dân tộc” từ năm 1974 phải chuyển
đích ngắm đến một kẻ xâm lược khác đầy dã tâm là Trung Quốc với việc xâm chiếm
quần đảo Hoàng Sa, thay vì nhắm vào chính quyền Sài Gòn.
Sức
mạnh vũ bão và bách chiến bách thắng của đoàn quân “giải phóng” khi ấy lẽ nào
chỉ chú trọng quét qua vùng lãnh thổ của một chính quyền tuy trái ý thức hệ
nhưng cùng là đồng bào Việt Nam, mà không tập trung vào việc đánh đuổi quân xâm
lược Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ thiêng liêng của cha ông
chúng ta? Đội quân dũng mãnh đang hừng hực khí thế tiến công như vậy lẽ nào lại
khiếp sợ và tránh né kẻ thù, trừ phi đã có một toan tính chính trị nào khác mà
không ai hiểu?
Như
vậy, có thể nói, ngày 30/4/1975 chưa thật sự xứng đáng gọi là ngày “toàn thắng”
và “non sông thu về một mối” được. Tổn thất xương máu không biết bao nhiêu mà
quân xâm lược vẫn còn đó trên mảnh đất của tổ tiên, thì chiến thắng ấy quả
nhiên còn dang dở.
Ngày
trước, còn bé và ngu ngơ, tôi rất thích bài hát “Tiến về Sài Gòn” của cố nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước bởi giai điệu hùng tráng của nó. Một đoạn trong bài đó tôi
luôn nhớ là: “Tiến về Sài Gòn, trận cuối là trận này!” Bây giờ ngẫm lại, lời đó
trên thực tế hoàn toàn sai. Trận cuối chưa phải là trận đánh mùa xuân 1975, mà
hãy còn ở phía trước.
LS
Lê Công Định