Đầu
năm 1979 chúng tôi đang bị giam ở trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa, gần sát tỉnh Sầm
Nứa của Lào. Sáng 18.2.1979, khi chúng tôi vừa thức dậy, có anh đến nói nhỏ bên
tai: “Tối hôm qua Trung Quốc đã tấn công vào biên giới Việt Nam rồi!” Tin
đó do anh trật tự đi mở cửa mới cho biết. Một vài anh em tỏ ra vui mừng
hớn hở và bàn tán với nhau. Nhưng một anh lớn tuổi quát: “Tàu nó xâm chiếm
đất nước của mình tại sao lại mừng?” Ngạn ngữ Pháp có câu:"L'ennemi de mon
ennemi est mon ami" (Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta)! Thật ra lúc đó
cả Trung Cộng lẫn Việt Cộng đều được coi là kẻ thù, nhưng vì Việt Cộng đang
giam giữ ta nên khi thấy Trung Cộng đánh Việt Cộng ta mừng!
Cách
đó một tháng, những anh em tù nhân chính trị ở trại Cổng Trời, Hà Tuyên, sát
biên giới Tàu, đều được chuyển về đây, trong đó có rất nhiều linh mục. Họ đang
bị giam ở nhà kiên giam hay buồng 5. Nghe tin Trung Quốc đánh vào biên giới, có
anh đã nói với tôi: “Cám ơn Trung Quốc! Nếu họ không đánh vào biên giới,
chắc tụi này sẽ bị chết rũ tù ở đó hết. Ít ai vào trại Cổng Trởi mà trở về
được…”! Đúng với câu ngạn ngữ khác của Pháp: “A quelque chose malheur est
bon”, có người đã dịch ra tiếng Anh là “Every cloud has a silver lining” hay
“Out of bad comes good”, tức trong cái rủi có cái may!
Hai
tuần trước, cán bộ trại đã bắt chúng tôi đào các giao thông hào chằng chịt trên
các đồi sắn. Chúng tôi không biết đào để làm gì. Thì ra nhà cầm quyền đã đoán
biết trước Trung Quốc sẽ đánh vào biên giới phía bắc nên chuẩn bị để đối phó:
Chuyển hết tù nhân ở biên giới về Thanh Hóa vì sợ Trung Cộng “giải phóng” họ.
Lập kế hoạch để đối phó. Trước hết, địa phương quân được lùa ra giao chiến với
quân Trung Quốc, bị Trung Quốc đánh cho te tua, nhưng khi quân Trung Quốc tiến
sâu vào nội địa, quân chính quy được đưa ra phản công, quân Trung Quốc cũng te
tua!
Các
diễn biến của trận chiến giàn khoan HD-981 vừa qua cho thấy Hà Nội cũng đã biết
trước chuyện gì sẽ xảy ra và đã chuẩn bị kế hoạch rất có bài bản để đối phó.
Người Việt đấu tranh gần như không hay biết gì. Vậy cần nhìn lại để
rút bài học.
VIỆC
PHẢI ĐẾN ĐÃ ĐẾN
Ngày
9.5.2012, Tân Hoa Xã của Trung Quốc loan tin Công ty Dầu khí Hải dương Trung
Quốc (CNOOC) đã lắp đặt xong một giàn khoan khổng lồ có thể khoan đến độ sâu
1.500m. Giàn khoang này đang được đặt tại khu vực cách Hồng Kông khoảng 320km
về hướng Đông Nam .
CNOOC mô tả đây là một bước quan trọng đối với ngành công nghiệp dầu khí của
Trung Quốc vì từ trước tới nay các giàn khoan dầu khí của họ chỉ khoan giới hạn
ở độ sâu khoảng 300m.
Trung
Quốc lập một dàn khoan có thể khoan ở độ sâu 1.500m để làm gì? Hoa Kỳ,
Philippines và Việt Nam đều đoán biết Trung Quốc sẽ đem giàn khoan này đến khai
thác trong các vùng đang tranh chấp ở trên Biển Đông, vì Trung Quốc đã phân
chia biển Đông thành 7 khu vực bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung Quốc chỉ chờ một thời cơ thích hợp để hành động. Tập đoàn dầu khí Philex
của Philippines muốn tránh đối đầu với Trung Quốc nên ngày 8.5.2012 đã loan báo
sẽ thảo luận về khả năng hợp tác với CNOOC trong việc phát triển dầu khí trên
biển Đông. Nhưng CNOOC không muốn nói chuyện.
Việc
phải đến đã đến. Trong chuyến viếng thăm Á Châu từ 23 đến 29.4.2014, Tổng Thống
Obama đã gởi đến Trung Quốc một thông điệp gồm ba điểm chính: (2) Sự “xoay
trục” của Mỹ không phải để bao vây Trung Quốc, (2) Mỹ không can thiệp vào việc
tranh chấp chủ quyền về các đảo trên Biển Hoa Đông và Biển Đông, và (3) Mỹ
không đòi hỏi các quốc gia trong vùng phải chọn bên này hay bên kia. Rõ ràng
Tổng Thống Obama đã bật đèn xanh cho Trung Quốc tiến vào Biển Đông. Mỹ muốn tạm
thời nhượng bộ Trung Quốc trong vụ Biển Đông để Trung Quốc không đứng với Nga
trong vụ Ukraina. Đây là một sự tương nhượng không có bản kết ước.
KỊCH
BẢN ĐƯỢC DIỄN KHÁ HAY
Đầu
tháng 5, khi Trung Quốc bắt đầu dời giàn khoan đi ra Biển Đông, Hà Nội cho diễn
kịch bản đã được soạn sẵn. Điều mà Hà Nội lo sợ không phải là đối phó với Trung
Quốc ở Biển Đông vì trận chiến này còn dài và phải qua nhiều giai đoạn phức
tạp. Điều mà Hà Nội lo sợ là các cuộc nổi dậy chống Trung Quốc ở trong
nước sẽ bùng phát mạnh và sau đó biến thành các cuộc nổi dậy chống chính
quyền. Do đó, chính quyền phải ra tay trước. Người chỉ huy trận đánh này
không phải là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hay Bộ Trưởng Công An Trần Đại Quang mà
là Trung Tướng Hoàng Kông Tư, Quyền Tổng Cục Trưởng Tổng Cục An ninh II.
Ngày
Chủ nhật 11.5.2014 được coi là một ngày khác thường trong sinh hoạt chính trị ở
Việt Nam .
Từ thành phố đến thôn quê đều xuất hiện những đám đông biểu tình phản đối Trung
quốc xâm lược và yêu cầu cải tổ đất nước. Trên đường phố Hà Nội, người ta thấy
xuất hiện hai nhóm khác nhau rất rõ rệt, một nhóm vừa hô chống Trung Quốc vừa
kêu gọi ủng hộ chính quyền. Nhóm này có thể là của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản
HCM. Nhóm kia tập họp theo lời kêu gọi của 20 “tổ chức dân sự”. Nhà cầm quyền
gọi đó là “nhóm tự phát”. Cuộc biểu tình đã diễn ra một cách suôn sẻ, không bị
công an gây khó dễ như các lần biểu tình trước.
Qua
ngày 12.5.2014 các cuộc biểu tình đã nổi ra nhiều nơi, nhất là tại Bình Dương
và Vũng Áng (Hà Tĩnh), nơi có các cơ sở đầu tư của người Trung Quốc. Tại hai
nơi này, các vụ bạo động đã xảy ra. Chúng ta hãy nghe ông Mai Đức Chính, Phó
Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam kể lại. Ông nói rằng đây là
những cuộc biểu tình được “kích động gây bạo loạn, có tổ chức rất chặt chẽ”.
Những người “kích động” đã chuẩn bị mua cờ, áo “với số lượng rất lớn” và phát
áo cho công nhân. Ông nói với báo Người Lao Động:
“Chuyên
nghiệp hơn, chúng đã photocopy bản đồ tất cả doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan
để thuận tiện ra tay. Chúng còn sử dụng cả bộ đàm liên lạc với nhau, đi bằng xe
máy cho cơ động. Trong xe đều có đủ đồ nghề dao, kiếm. Chúng còn sử dụng cả
‘bom xăng’ để đốt công ty.”
“Thậm
chí, có nơi còn phát tiền mỗi công nhân được 50.000 đồng. Việc này đã có sự
chuẩn bị với số đông lực lượng bất hảo.”
“Ở
thời điểm biểu tình đang ‘nóng’, chúng nhắn tin kêu gọi biểu tình cho 200 -
300.000 đồng, yêu cầu nếu có cả trẻ con thì cho mang theo.”
Bà
Dương Vũ Phong, Chủ tịch danh dự của Phòng thương mại Đài Loan tại Việt Nam , cho phóng
viên AFP biết: «Chúng tôi đã rất bất ngờ về quy mô của các vụ bạo động.
Ban đầu chỉ có vài công nhân nói họ muốn đình công, nhưng ngay sau đó khoảng
300 người vũ trang bằng gậy gộc, đi xe gắn máy tràn vào khuôn viên của các công
ty. Họ đi hết nhà máy này sang nhà máy khác để tấn công phá phách».
Hãng
tin AFP dẫn nguồn tin từ Phòng Thương Mại Đài Loan tại Hà Nội cho biết, trong
các vụ bạo động chống Trung Quốc vừa qua tại Việt Nam có hơn 500 nhà máy của
các nhà đầu tư Đài Loan bị thiệt hại. Tại Vũng Áng, Hà Tĩnh, nhà máy thép
Formosa Plastics Group của Đài Loan ở Việt Nam đã bị phóng hỏa và có người tử
vong. Theo Formosa, thiệt hại tại một nhà máy luyện kim đang được xây dựng tại
Vũng Áng, Hà Tĩnh, lên đến 3 triệu đô la.
Các
doanh nghiệp Đài Loan đã đầu tư vào Việt Nam từ năm 1988 đến nay khoảng 20
tỷ USD. Đài Loan là nhà đầu tư lớn thứ 4 tại Việt Nam
chỉ sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore .
Về
phía Trung Quốc, công an cho biết một công nhân Trung Quốc tử vong và 149 công
nhân Việt Nam và Trung Quốc bị thương phải cấp cứu tại bệnh viện. Trung Quốc
nói họ có 4 người bị chết.
MỤC
TIÊU CỦA KỊCH BẢN
Trong
một chế độ được kiểm soát chặt chẽ như ở Việt Nam hiện nay, ai có thể thực hiện
được những chuyện bạo động kinh hoàng như đã nói trên? Đa số các cơ quan truyền
thông quốc tế cũng như các nhà tranh đấu ở trong nước đều tin rằng ngoài chính
quyền không ai có thể làm được chuyện đó. Vậy chính quyền kích động biểu tình
bạo động để làm gì? Có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng hai mục tiêu sau
đây được coi là hai mục tiêu chính. Mục tiêu thứ nhất là dựa vào bạo động để
ban hành lệnh cấm biểu tình. Mục tiêu thứ hai là phát hiện những thành phần bị
coi là nguy hiểm.
1.-
Dựa vào bạo động để cấm biểu tình.
Sau
khi các biến cố bạo động nói trên đã diễn ra, chính quyền đã ra lệnh cấm biểu
tình trên toàn quốc. Trong bài “Việt Nam: Chính quyền cấm biểu tình phản đối
Trung Quốc” phổ biến ngày 18.5.2014, đài RFI đã mở đầu như sau: “Sáng nay, Chủ
nhật 18/05/2014, chính quyền Việt Nam đã huy động một lực lượng công an và an
ninh đông đảo để ngăn chặn các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đưa giàn
khoan vào vùng biển của Việt Nam. Trong những ngày qua, nhiều tổ chức xã hội
dân sự đã kêu gọi người dân xuống đường.”
Điều
mà chúng tôi cần nhấn mạnh ở đây là mục tiêu của lệnh cấm biểu tình không phải
là vì sợ Trung Quốc mà vì sợ các cuộc biểu tình đó sẽ biến thành những cuộc
biểu tình chống chính quyền.
2.-
Phát hiện các thành phần bị coi là nguy hiểm
Khi
một biến cố chính trị xảy ra hoặc được tạo ra, công việc đầu tiên của cơ quan
an ninh là phát hiện ra các thành phần bị coi là nguy hiểm, đó là những
thành phần lãnh đạo biến cố và các thành phần có khả năng kích động làm cho
biến cố bùng mạnh lên.
Vụ
Thiên An Môn là một thí dụ điển hình. Biến cố bắt đầu xảy ra từ 16.4.1989, lúc
đó chính quyền có thể dẹp ngay một cách dễ dàng, nhưng chính quyền không làm
như vậy, họ để cho biến cố bùng nổ ngày càng lớn và kéo dài. Họ còn cho Thủ
Tướng Triệu Tử Dương ra thương lượng với các nhóm lãnh đạo sinh viên... Trong
khi đó, các nhân viên an ninh giả dạng sinh viên đi điều tra xem những ai là
người lãnh đạo biến cố và các thành phần có khả năng kích động để đưa biến cố
đi lên..., quay phim và chụp hình. Mãi đến đêm 3.6.1989 họ mới cho công an đi
lượm các thành phần bị coi là nguy hiểm, sau đó cho xe tăng và quân đội quét
sạch quảng trường Thiên An Môn. Theo báo cáo của tổ chức Hồng Thập Tự Quốc Tế,
có khoảng 2.600 người dân bị giết và hơn 30.000 người bị thương. Hơn 1.500
người bị bắt, trong đó có ít nhất 6 lãnh tụ sinh viên trong danh sách 21 người
bị truy nã.
Vụ
bạo động từ 12 đến 15.5.2014 vừa qua tương đối nhỏ, nhưng đã có đến 1.036 người
bị bắt giữ ở tỉnh Bình Dương, 753 nghi can đã bị truy tố về các tội “gây rối
trật tự công cộng, hủy hoại tài sản, trộm cắp tài sản và chống người thi hành
công vụ.” Đối với các thành phần nguy hiểm khác thoát khỏi bị bắt, công an
đã cô lập họ. Các tin tức từ Nghệ Tĩnh chưa được công bố đầy đủ.
RỒI
SẼ PHẢI LÀM GÌ?
Trên
báo Lao Động trong nước ngày 14.5.2014, một người mang tên Hữu Thọ đã
viết: “Đứng sau những hành động quá khích này chắn chắn là gián điệp Trung
Quốc dưới vỏ bọc lao động phổ thông đang tràn ngập trên lãnh thổ Việt Nam …” Một
người có trình độ bình thưởng cũng có thể hiểu ngay đây là cách đánh lạc hướng
của CSVN. Nhưng điều đáng tiếc là một nhà bình luận "lão
thành" có tiếng tăm ở Orange County đã vớ lấy và coi đó là một quan điểm
chính xác!
1.-
Nhìn lại quá khứ
Khi
được hỏi “Rồi sẽ phải làm gì?” để đối phó với sự xâm chiếm của Trung Quốc, đa
số đều cho rằng “Phải diệt nội thù trước rồi chống ngoại xâm sau”. Nhưng chúng
ta có thể làm được như vậy không?
Trước
năm 1954, chúng ta đều cương quyết diệt cộng, nhưng Pháp và Trung Quốc ký hiệp
định Genève và chúng ta phải bỏ miền Bắc chạy vào miền Nam . Trước năm
1975, miền Nam có chính phủ, có quân đội hùng mạnh và cương quyết chống cộng
sản đến cùng, nhưng năm 1972 Mỹ đem miền Nam bán cho Trung Quốc, chúng ta bị đi
tù rồi bỏ nước ra đi...
2.-
Đây là nước Mỹ!
Khi
đưa ra những chủ trương để đối phó với Trung Quốc và CSVN, nhiều nhà đấu tranh
quên rằng chúng ta đang ở trong nước Mỹ và trong thế giới tự do chứ không phải
đang ở trên đất của VNCH.
Hôm
18.5.2014, khi những người Việt chống cộng cầm cờ vàng ba sọc đỏ đi
biểu tình chống Trung Quốc và chống cộng ở Texas, Orange County…, Hội Việt Kiều
Yêu Nước đã tập trung các đoàn viên của họ cầm cở đỏ sao vàng biểu
tình chống Trung Quốc ở Washington DC, New York, Paris (Pháp), Budapest
(Hungary), (Warszawa) Ba Lan, Muenchen (Đức) và Helsinki (Phần Lan).
Trong
khi nhiều người kêu gọi “diệt nội thù trước" thì hôm 21.4.2014, Ngoại
Trưởng Kerry mời Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đến Washington để “tham vấn
toàn diện về các vấn đề song phương và khu vực trong khuôn khổ mối
quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước.” Người Việt đấu tranh muốn chế
độ cộng sản phải sụp đổ ngay, trong khi Hoa Kỳ áp dụng chiến lược "diễn
biến hòa bình" và "dùng thằng con thay thế thằng cha"!
Giữa ước muốn của người Việt đấu tranh và chính sách của Hoa Kỳ hoàn toàn khác
nhau.
Vấn
đề cụ thể là hiện nay nhiều người Việt tại Hoa Kỳ đang phát động chiến dịch
không dùng hàng Trung Quốc, nhưng nhìn vào bản thống kê của Hoa Kỳ, chúng ta
thấy năm 2012 Hoa Kỳ đã nhập cảng của Trung Quốc 425,5 tỷ USD và năm 2013
là 440,4 tỷ USD. Như vậy, “lệnh cấm vận” của 1.750.000 người Việt ở Mỹ sẽ đi
tới đâu?
Bản
tin của Reuter hôm 22.5.2014 cho biết Tòa Bạch Ốc ủng hộ Việt Nam xử dụng tố
quyền pháp lý để giải quyết các tranh chấp sau khi Trung Quốc triển khai giàn
khoan trên vùng tranh chấp ở Biển Đông. Đây là một kịch bản mới sắp được trình
diễn. Chúng tôi sẽ trình bày trong bài tới.
Lữ
Giang
Tình trạng hiện nay của Việt Nam là khá phức tạp. Hành vi bất chính đáng của phía Bắc Kinh thực sự là khó xử lý. Nhưng có hai vấn đề mấu chốt lại khá đơn giản và phải giải quyết ngay.
ReplyDeleteVấn đề thứ nhất là thiếu thống nhất. Vấn đề thứ hai là hiện nay Việt Nam không có một người bạn thân thiết nào cả. Nếu cứ tiếp tục thờ ơ với hai vấn đề vừa lớn vừa đơn giản này, tôi e rằng đất nước sẽ rất khó mà thoát khỏi tình trạng hiện nay. Mặt khác, hai bước này sẽ giúp Việt Nam một cách đáng kể và cực nhanh.
Hãy bắt đầu với việc thống nhất. Mới hôm qua, Ông Trương Tấn Sang có phát biểu rằng:
“Tôi mong bà con trong những tình huống khó khăn như thế này cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt và nhắc nhở nhau tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và phải hết sức cảnh giác trước những thông tin mang tính chất chia rẽ nội bộ.”
Dù vẫn hiểu được ý ông nói nhưng tôi lại thấy tuyên bố kiểu này chưa hay lắm vì rất khó có thể giành được sự ủng hộ và thống nhất của toàn bộ người Việt Nam. Chẳng hạn, có ai trên cấp cao dám tuyên bố:
“Vào thời điểm lịch sử này mong toàn dân Việt Nam, không phân biệt quan điểm chính trị nào, dù ở trong hay ngoài nước, cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt và nhắc nhở nhau tăng cường đoàn kết xung quanh tổ quốc”?
Ý ở đây là toàn xã hội Việt Nam cần phải bắt đầu có một tình thần mới!
Hỡi các bạn Việt Nam! Việc quyết định tương lai của đất nước riêng là quyết định của các bạn. Và tôi không giả định những quan điểm của tôi là hoàn toàn đúng, thậm chí phần lớn đúng. Tuy nhiên, Việt Nam phải thực sự khắc phục sự thiếu thống nhất trong nội bộ và toàn xã hội vào đúng thời điểm này.
Tất nhiên không thể đề cập những vấn đề trên biển trước mặt một mình. Như đã nói trước, Việt Nam phải thể hiện cho thế giới những lý do thuyết phục để làm sao cho họ thấy nên ủng hộ Việt Nam. Việc gửi thông điệp tới LHQ là những cố gắng giải quyết tranh chấp bằng những phương diện luật pháp.
Nhưng xin nghe tôi: nếu không có những tiến bộ rõ nét về mặt thể chế và nhân quyền, thì 100% sẽ không có một nước nào ủng hộ Việt Nam. Đừng phản ứng với những vụ việc Bình Dương và Hà Tĩnh bằng hành vi đàn áp.
Hãy tìm những con đường mới để làm cho Việt Nam được thế giới tôn trọng.
Nếu thấy hai bước này là quá lớn, thì đề nghị bạn nghĩ lại Vì nếu có đủ dũng cảm để thay đổi, Việt Nam sẽ thành một nước hùng mạnh hơn và sẽ có nhiều nước sẵn sàng bắt tay và giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền và tiến vào một thời kỳ mới.
Jonathan London, Hà Nội