Dưới
đây là bài phỏng vấn giáo sư M. Taylor Fravel - một chuyên gia về Trung Quốc
của Đại học M.I.T. bên Mỹ - được thực hiện bởi báo The New York Times - một tờ
báo uy tín hàng đầu quốc tế - về sự kiện giàn khoan dầu HD 981 của Tàu cộng và
xung đột ngoài biển Đông gần Hoàng Sa. Bài phỏng vấn có thể giúp giải đáp vài
câu hỏi nhiều người đang thắc mắc: tại sao chúng nó làm như vậy; có xảy ra xung
đột lớn không, Mỹ sẽ làm gì, Đông Nam Á sẽ làm gì trước sự hung hăng của Tàu
cộng?...
Tranh
chấp lãnh thổ sôi sục từ lâu giữa Trung Quốc và Việt Nam ở biển Đông lại có một
vụ bùng phát theo chu kỳ đầu tuần này khi các tàu biển Việt Nam chạm trán với
các tàu Trung Quốc đang cố đặt một giàn khoan dầu gần quần đảo Hoàng Sa đang
tranh chấp, bên ngoài bờ biển Việt Nam. Giàn khoan thuộc Công ty dầu khí hải
dương quốc gia Trung Quốc, gọi tắt là CNOOC, chỉ cách bờ biển miền Trung Việt
Nam khoảng 120 hải lý. Các tàu Trung Quốc đã bắn súng nước vào tàu Việt Nam và cả hai
bên đều nói rằng tàu của mình bị đối phương đâm vào. Quân đội Trung Quốc đã
đánh nhau với các đơn vị Miền Nam Việt Nam ở phía nam quần đảo Hoàng Sa vào năm
1974, dẫn tới việc Trung Quốc chiếm hết cả quần đảo, dù rất nhiều đảo hiện vẫn
không có người ở.
Hôm
thứ Ba, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói rằng, “do lịch sử xung đột gần
đây trên biển Đông, quyết định của Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào vùng biển
tranh chấp là hành động gây hấn và không có ích gì cho việc duy trì hòa bình,
ổn định ở khu vực”.
Hôm
qua thứ Năm 8-5, giáo sư M. Taylor Fravel, giáo sư khoa chính trị, Học viện
Công nghệ Massachusettes (M.I.T.) đã trả lời các câu hỏi của báo The New
York Times về biến cố mới nhất trên vùng biển Việt Nam.
Ông
Fravel nghiên cứu các vấn đề lãnh thổ Trung Quốc, và là tác giả sách “Biên
giới mạnh, đất nước an toàn: Hợp tác và Xung đột trong tranh chấp lãnh thổ của
Trung Quốc”, do nhà xuất bản Princeton University Press xuất bản.
--
Câu
hỏi: Tại sao Trung Quốc cố đưa giàn khoan dầu vào vị trí này, ở thời điểm này?
Trả
lời: Lý do có khả năng nhất là chính trị chứ không phải kinh tế. Về kinh
tế, khu vực mà giàn khoan dầu này hoạt động có rất ít mỏ dầu đã được xác nhận
hoặc có thể khai thác. Hơn thế nữa, giàn khoan có giá tới 1 tỉ USD thì hoạt
động hàng ngày cực kỳ tốn kém; đặt ra câu hỏi tại sao CNOOC lại thăm dò ở một
vùng có triển vọng rất không chắc chắn.
Thay
vì vậy, Trung Quốc chủ yếu dùng giàn khoan để áp đặt và thực thi quyền tài phán (jurisdiction) trên
vùng biển mà họ tuyên bố chủ quyền ở biển Đông. Với chuyến công du gần đây của
Tổng thống Obama tới khu vực này, gồm cả các cuộc viếng thăm chính thức Malaysia và Philippines – hai trong số các quốc
gia có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông, Trung Quốc có thể tìm cách thử
thách quyết tâm mới khôi phục của Mỹ “xoay trục” sang châu Á.
Dù
sao, thời điểm mà Trung Quốc hành động mới khó hiểu. Tuần tới Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ có hội nghị thượng đỉnh thường niên ở Miến Điện. Hành
động của Trung Quốc bảo đảm rằng cách ứng xử của họ ở biển Đông sẽ trở thành
chủ đề thảo luận hàng đầu của hội nghị đó và một sự quan tâm lớn lao hơn của
quốc tế sẽ tập trung vào tuyên bố của khu vực. Nói chung, trong vài năm qua,
Trung Quốc và Việt Nam
đã cải thiện quan hệ và quản lý các cuộc tranh chấp trên biển một cách hòa
bình. Hai nước cũng đã đạt được thỏa thuận về các nguyên tắc căn bản để giải
quyết tranh chấp hàng hải vào tháng 10-2011, thiết lập các đường dây nóng và tổ
chức các nhóm làm việc về phân định biên giới trên biển, hợp tác cùng phát
triển.
Câu
hỏi: Với những gì đã xảy ra trong tuần trước và lịch sử đối đầu giữa Trung Quốc
và Việt Nam
trên quần đảo Hoàng Sa, liệu tình hình có thể leo thang thành một vụ xung đột
căng thẳng hơn, rộng lớn hơn?
Trả
lời: Nguy cơ leo thang căng thẳng là có thật. Dầu và khí đốt ngoài biển
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam . Điều này tạo cho Hà Nội một sự
khích lệ mạnh lẽ để ngăn cản Trung Quốc hoạt động bên trong vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) rộng 200 hải lý của Việt Nam, ngay cả khi khu vực đặc biệt này có thể
không có những mỏ dầu khí lớn. Vị trí gần gũi [của khu vực] với cả hai quốc gia
tạo điều kiện để hai bên triển khai các lực lượng hải quân và các lực lượng
thực thi pháp luật hàng hải. Khả năng nhiều con tàu tranh nhau quyền kiểm soát
một khu vực nhỏ làm gia tăng nguy cơ tính toán sai lệch và va chạm mạnh có thể
leo thang thành xung đột vũ trang.
Trong
vài năm qua, Việt Nam đã chứng tỏ quyết tâm sử dụng các tàu chấp pháp của chính
phủ để thách thức điều mà họ coi là hành vi hung hăng của Trung Quốc đe dọa
quyền lợi của họ. Năm 2007, Việt Nam đã tìm cách ngăn cản Trung Quốc tiến hành
khảo sát địa chấn trong vùng biển Hoàng Sa, về phía bắc vị trí giàn khoan dầu
hiện nay. Năm 2010, các tàu Việt Nam bao vây một tàu tuần dương của
Cục Kiểm ngư Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp. Bây giờ, đối với Việt Nam được mất
còn cao hơn nữa, nên có lẽ họ sẽ chọn cách tiếp tục nỗ lực ngăn cản giàn khoan
Trung Quốc bắt đầu các hoạt động.
Câu
hỏi: Trên cơ sở nào mà Trung Quốc nói rằng, nơi đặt giàn khoan nằm trong quyền
hạn hợp pháp của họ?
Trả
lời: Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền trên toàn quần đảo Paracel Islands,
mà Trung Quốc gọi là Xisha (Tây Sa), còn Việt Nam gọi là Hoàng Sa. Cũng giống
như lập trường của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku, Trung Quốc luôn nói rằng
không có tranh chấp với Việt Nam
về các hòn đảo này. Trung Quốc kiểm soát phần phía bắc của quần đảo từ giữa
thập niên 1950, và phần phía nam của quần đảo từ năm 1974 sau khi họ đánh nhau
với quân đội Việt Nam Cộng hòa. Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, hoạt động của
giàn khoan đang diễn ra “trong vùng nước của quần đảo Xisha”.
Giàn
khoan được đặt ở vị trí cách đảo Tri Tôn – điểm có đất ở cực tây nam của quần
đảo Hoàng Sa - khoảng 17 hải lý về phía nam. Năm 1996, Trung Quốc vẽ đường cơ
sở bao quanh toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Căn cứ vào một luật năm 1998, Trung
Quốc đòi một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở
này, theo Công ước về Luật Biển của Liên hiệp quốc (UNCLOS) và tuyên bố chỉ họ
mới có quyền khai thác mọi tài nguyên biển trong vùng EEZ đó. Vị trí của giàn
khoan nằm bên trong vùng EEZ như vậy, dựa theo tuyên bố chủ quyền của Trung
Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Câu
hỏi: Liệu Việt Nam có lý lẽ
chính đáng rằng việc đặt giàn khoan của Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam
hoặc việc này phá hoại lòng tin do bản chất của vấn đề Hoàng Sa là một quần đảo
đang bị tranh chấp?
Trả
lời: Việt Nam
phản đối việc đặt giàn khoan của Trung Quốc theo hai lý do. Một là, giàn khoan
được đặt trên vùng đặc quyền kinh tế EEZ mà Việt Nam xác lập từ bờ biển của mình.
Giàn khoan chỉ cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 120 hải lý và như vậy nằm
trên thềm lục địa của Việt Nam, sâu trong vùng đặc quyền kinh tế EEZ rộng 200
hải lý của Việt Nam.
Hai
là, Việt Nam
tuyên bố chủ quyền trên toàn quần đảo Hoàng Sa và bác bỏ lập trường của Trung
Quốc rằng không có tranh chấp nào cả. Mặc dù Việt Nam chưa vẽ đường cơ sở bao
quanh quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam đã phản bác tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc
đối với quần đảo và quyền tài phán đối với các vùng nước chung quanh. Theo quan
điểm của Việt Nam , giàn
khoan của Trung Quốc xâm phạm vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc không có cơ sở
nào để khoan dầu ở vị trí này.
Câu
hỏi: Lập trường của Hoa Kỳ trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông là
gì. Và ông có nghĩ rằng Hoa Kỷ sẽ/hoặc nên phản ứng như thế nào trong vụ này?
Trả
lời: Chính sách của Hoa Kỳ là không đứng về phía nào trong vấn đề chủ
quyền các hòn đảo trong biển Đông, kể cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa. Đồng thời, Hoa Kỳ luôn nhấn mạnh những lợi ích chủ yếu của mình trong khu
vực, bao gồm tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các vụ xung đột, và tránh hăm
dọa hoặc chèn ép trong các cuộc tranh chấp. Để hỗ trợ cho giải pháp hòa bình,
Hoa Kỳ đã thúc giục Trung Quốc và ASEAN tiến tới một bộ quy tắc ứng xử có tính
ràng buộc về pháp lý và Hoa Kỳ ủng hộ việc sử dụng sự phân xử của cơ quan trọng
tài quốc tế như trường hợp Philippines mới đây đã nộp hồ sơ lên Tòa án quốc tế
về Luật Biển.
Ứng
phó với biến cố đang xảy ra, Hoa Kỳ kêu gọi tất cả các bên ngừng các hành động
đơn phương trong vùng biển rõ ràng là đang tranh chấp. Hoa Kỳ cũng có thể nhấn
mạnh rằng, sự cố đang diễn ra càng làm rõ nhu cầu bức thiết phải có một bộ quy
tắc ứng xử để quản lý khả năng tiềm ẩn về leo thang xung đột, tránh những sự cố
như vậy trong tương lai.
Câu
hỏi: Ông nghĩ các quốc gia Đông Nam Á khác cũng đang tuyên bố chủ quyền nhiều
phần của biển Đông sẽ phản ứng như thế nào với những hành động mới nhất của
Trung Quốc?
Trả
lời: Hành động của Trung Quốc chỉ có thể làm cứng rắn thêm quan điểm của
các nước khác cùng có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông rằng Trung Quốc đang ấp ủ
những dự định xâm lăng và chỉ thích hành động đơn phương. Đặc biệt, việc bố trí
giàn khoan của Trung Quốc sẽ làm tăng gấp đôi quyết tâm của các nước này làm
tất cả những gì có thể để bảo vệ chủ quyền. Các nước này có khả năng sẽ đầu tư
nhiều hơn vào hải quân và các cơ quan thi hành luật biển; họ cũng tìm cách nâng
cao hơn nữa sự hợp tác an ninh hàng hải với Hoa Kỳ và Nhật Bản, cùng với nhiều
nước khác nữa, và có thể sẽ hợp tác với nhau.
Câu
hỏi: Trung Quốc cam kết tới mức nào với việc sử dụng bản đồ 9 đoạn từ thời Dân
quốc làm căn bản cho những tuyên bố chủ quyền trên biển Đông?
Trả
lời: Mặc dù đường 9 đoạn (tức đường lưỡi bò, đường chữ U – ND) đã
xuất hiện trên bản đồ Trung Quốc nhiều thập kỷ, Trung Quốc vẫn duy trì một sự
im lặng khó hiểu về ý nghĩa của nó. Trung Quốc không bao giờ nói rõ đường này
mô tả cái gì, dù tích cực hay tiêu cực. Đường này có thể tượng trưng cho một
đòi hỏi về chủ quyền đối với những hòn đảo nằm bên trong nó, hoặc nó có thể có
ý mở rộng hơn và tượng trưng cho một đòi hỏi chủ quyền đối với vùng đặc quyền
kinh tế EEZ hoặc chủ quyền dựa trên lịch sử (cả hai điều này đều không phù hợp
với UNCLOS).
Trong
nước Trung Quốc cũng có sự bất đồng về cách định nghĩa đường (lưỡi bò). Dù
sao, những hành động của Trung Quốc trong vài năm qua, chẳng hạn bảo vệ ngư dân
của họ làm ăn ở những vùng biển rất xa về phía nam của biển Đông, hoặc mời các
công ty dầu khí nước ngoài đầu tư thăm dò các lô ngoài bờ biển Việt Nam… cho
thấy Trung Quốc có vẻ thích một định nghĩa mở rộng hơn.
Liên
quan tới tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, Trung Quốc luôn khẳng định rằng, đường 9 đoạn, được xuất bản chính thức vào
cuối thập niên 1940 – cung cấp sự hỗ trợ cho tuyên bố của họ đối với hai quần
đảo.
Edward
Wong thực hiện
Huỳnh
Văn Hoa dịch
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.