Sau
khi lên ngồi phía sau xe taxi, Hiền nói với người tài xế: “Tôi muốn đi tìm nhà
người quen ở Thanh Khê. Lâu quá rồi tôi không đến đây nên chỉ còn nhớ mang
máng. Từ ngã ba Thanh Khê vào một con hẻm lớn chừng hai trăm thước, rồi lại
quẹo phải chừng năm mươi thước, căn nhà đó nằm bên phải. Người bạn tôi tên
Lượm, dân cố cựu vùng nầy. Nhờ anh tìm giùm. Anh đừng lo, tôi sẽ bồi dưỡng cho
anh hậu hỉ”.
Người
tài xế hỏi lại: “Thế chị không tới đây từ bao lâu rồi?”
Hiền
trả lời, hình như đã tính trước: “Chừng mười lăm năm”
“Mười
lăm năm, biết bao nhiêu vật đổi sao dời, sợ rằng mọi vị thế đều thay đổi, nhận
không ra. Hy vọng anh ấy là dân sống ở đây lâu năm thì hàng xóm láng giềng biết
sẽ chỉ cho chị, hy vọng không khó lắm”.
Người
tài xế cho xe chạy ra đường Hùng Vương, con đường huyết mạch của Đà Nẵng ngày
xưa, xe cộ tấp nập nhưng chị không để ý, suy nghĩ miên man. Chị quyết tâm gặp
lại Lượm và đứa con gái của chị, sau mười lăm năm chị vượt biên biệt tích,
không có một tin tức nào về cha con họ. Dù Lượm có xỉ vả mắng nhiếc chị, có xua
đuổi thì chị cũng phải gặp họ để nói một lời xin lỗi, để nhìn lại đứa con gái
mà khi chị ra đi nó chỉ mới bốn tuổi. Đứa con mà bao nhiêu năm sống cơ cực
ở quê nhà, chị không gửi một đồng bạc nào về cho con bởi lòng ích kỷ vì sợ Lượm
sẽ bắt liên lạc, gây khó khăn cho chị.
Note:
Ảnh trong bài này là hình minh họa
Trong lúc chị muốn tránh tất cả, để mọi
người nghĩ rằng chị đã chết. Khi ra đi trong lúc Lượm còn trong trại cải tạo,
gia đình nghèo khổ, tất cả đồ đạc trong nhà đều bán sạch. Cũng vừa lúc đó có
những chuyến vượt biên bán chính thức dành cho người Hoa, chị được một người
đàn ông quen biết đề nghị giúp chị với điều kiện chỉ một mình chị đi, con phải
để lại. Chị đắn đo bao nhiêu ngày, nếu ở lại với tình trạng nầy mẹ con đều chết
đói, chi bằng gửi con về bên nội rồi qua đến Mỹ chị gửi tiền về nuôi con.
Chỉ có một con đường nầy giải quyết ổn thỏa bức bách về sự sống còn của chị và
con. Thế nhưng oan nghiệt thay…
Xe
ngừng trước một con hẻm, tài xế quay qua nói với chị: “Đã đến nơi, chị cứ ngồi
trên xe, để tôi xuống hỏi những người quanh xóm nầy có biết ông Lượm còn ở đây
không?”
Chị
nhìn quanh nhưng không thể nhận ra có cái gì quen thuộc mà trước đây chị sinh
sống. Mọi vật đều thay đổi xa lạ. Tự nhiên chị hồi hộp, tim chị đập mạnh không
biết chuyện gì sẽ xẩy ra với chị khi đứng trước mặt anh. Bây giờ chị mới thật
sự thấy lo lắng. Chị lấy kính đen ra mang để mọi người trong xóm này không ai
nhìn ra được chị, người đàn bà có một thời gian dài sống ở đây. Làm sao chị có
thể bước xuống xe đi bộ vào con hẻm trước bao nhiêu cặp mắt soi mói nhìn mình.
Có phải chăng đây cũng là một hình phạt về cái chuyện mình đã gây ra cho cha
con họ. Vì sự ích kỷ của mình, vì gặp một hoàn cảnh nhục nhã mà mình không muốn
cho cha con họ biết, nên mình đã cắt đứt liên lạc với chồng con, để bây giờ mọi
chuyện đều ngỡ ngàng, cảm thấy xấu hổ.
Người
tài xế trở ra nói với chị: “ Anh Lượm còn ở đây, nhưng không có ở nhà, đang bán
phở ngoài đường cái. Tôi đưa chị ra đó”.
Xe
chạy ra đầu hẻm thì ngừng, quán phở nằm bên kia đường. Chị ngồi trên xe nhìn
qua quán phở nhận ra anh ngay. Anh đang đứng phía sau nồi nước lèo đang bỏ bánh
phở vào tô cho khách. Vẫn bộ râu mép rậm rạp, vẫn nụ cười luôn luôn trên môi mà
ngày xưa anh đã chinh phục chị. Chỉ khác một điều là ngày xưa anh là một phi công,
còn bây giờ anh là người bán phở. Chị ôm mặt cúi đầu khóc nức nở, thương cho
anh quá nhưng bây giờ làm sao đây. Tóc anh nhuốm bạc, da sạm, đôi gò má hóp đủ
biết anh sống trong cơ cực, bần hàn, thế mà bao nhiêu năm nay chị không chi
viện một đồng bạc nào cho anh và con để sống. Nghĩ tới sự bạc tình của mình,
chị cảm thấy xấu hổ. Làm sao cha con anh không oán trách?
Người
tài xế hỏi chị:
“Chị
xuống xe, hay còn đi đâu khác?”
“Anh
cho tôi xuống đây”. Rồi chị móc ví trả tiền xe, không quên gửi tiền thêm cho
tài xế.
Chị
vào một quán nước đối diện với tiệm phở của anh bên kia đường, tìm một chỗ ngồi
thích hợp để nhìn qua. Chị phân vân không biết làm cách nào để gặp anh, trong
lúc khách khứa còn ra vào. Chị gọi một ly café đá rồi hỏi chuyện người bán quán:
“Tiệm
phở bên kia đường bán có khá không chị?”
“Phở
bình dân rẻ tiền, bán cho khách lao động quen biết, kiếm đủ sống?”
Chị
muốn hỏi về đứa con gái của chị, nhưng không biết cách nào chị phải hỏi một
cách lòng vòng, mông lung:
“Có
một mình anh đó đứng bán, không có ai giúp anh ấy sao?”
“Trước
đây thỉnh thoảng có đứa con gái phụ với cha, bây giờ nó đi học xa chỉ một mình
ổng làm”.
Chị
ngạc nhiên:
“Bộ
ở đây không có trường sao mà phải đi học xa?”
“Con
bé học giỏi lắm. Lên đại học, ở đây không có ngành đó, nên nó phải vào Sài Gòn”.
Chị
cuối mặt thoáng một vẻ vui mừng. Chị nói một cách bâng quơ:
“Bán
phở bình dân mà nuôi con lên đại học, giỏi thiệt”.
Người
bán quán dừng tay pha café, nhìn chị như soi mói và trách móc một cách nhẹ
nhàng:
“Ông
đó có vợ đi Mỹ nhưng biệt tích, nghe nói bà ta có chồng khác không giúp gì cho
cha con ông ấy hết. Tệ thật”.
Một
lời cố ý hay vô tình đã làm cho chị thấm đau. Một người dưng bên ngoài không ở
trong cuộc, nhưng thấu hiểu được hoàn cảnh của cha con anh, lời của họ như muối
xát vào mặt chị, huống gì cha con anh làm sao tránh được sự phẩn nộ? Chị tự hỏi
có nên gặp anh ngay bây giờ không? Chị có chịu nổi sự chửi bới nặng nề của anh
giữa lúc tiệm đang có khách, có mặt những người lạ.
Chị
hỏi người bán café:
“Quán
phở bên kia mấy giờ mới đóng cửa?”
“Sắp
đóng cửa bây giờ. Quán chỉ bán buổi sáng và trưa, hai giờ chiều đóng cửa để ông
ấy đi chợ lấy hàng về nấu, chuẩn bị cho sáng mai. Ngày nào cũng vậy, tội
nghiệp”.
“Anh
ấy không lấy vợ khác sao?”
“Ông
ấy bảo rằng mình nghèo quá không lo cho người ta trọn vẹn, làm khổ thêm một
người nữa, mình không đành. Thôi ở vậy nuôi con. Ông ấy cũng có nhiều bà
thương, cũng có bà lắm của nhiều tiền, nhưng ông không màng tới, hình như ông
sợ chuyện lấy vợ. Một con chim bị thương nên sợ hãi tiếng bật của cung”.
Chị
cuối xuống, khóc nức nở như có ai thọc trúng yếu huyệt. Sau cơn giằng xé con
tim, chị gỡ kiếng đen ra lấy khăn lau nước mắt. Ngày xưa anh đẹp
trai, một trung úy phi công bay bướm. Nhưng khi kết hôn với chị, anh từ bỏ tất
cả các thú vui về sống với vợ con. Lương trung úy của anh cộng với lương giáo
viên của chị, hai vợ chồng không giàu có nhưng sống thoải mái. Những ngày sống
với nhau thật hạnh phúc, buổi chiều anh chở vợ con trên chiếc xe lambretta đi hóng
mát trên bờ sông Hàn. Thứ bảy gửi con cho bà ngoại, vợ chồng đi xem ciné hay
nhảy đầm. Một khoảng thời gian ngắn đó đã cho chị hiểu được thế nào là hạnh
phúc, mà suốt cuộc đời sau nầy chị không thể nào tìm lại được. Chính chị là
người đánh rơi mất cái hạnh phúc tuyệt vời đó, chối bỏ chồng con, chạy theo một
thứ danh lợi phồn hoa. Đày ải anh và con lâm vào cảnh bần cùng tồi tệ.
Chị
nói thật với người bán café:
“Tôi
là vợ của anh Lượm trước đây và là mẹ của cháu Hậu. Không ngờ rằng tôi đã gây
ra nhiều oan nghiệt cho cha con họ quá. Chính tôi cũng không thể tha thứ cho
lầm lỗi của mình, thì làm sao tôi đòi hỏi chồng và con tôi tha thứ cho tôi
được”.
“Tôi
không ngạc nhiên, vì Hậu giống bà như đúc. Khi nghe bà hỏi thăm ông Lượm là tôi
có linh tính đoán ra được bà là vợ của ông ấy trước đây. Bà cứ qua đó gặp ổng,
chắc ông mừng lắm”.
“Không
đâu. Tôi nghĩ anh ấy có thể giết tôi cho hả giận, nhưng tôi không sợ. Có lẽ như
vậy tôi cảm thấy thanh thản hơn”.
Chị
trả tiền café, đứng dậy, cám ơn, rồi băng qua đường. Người bán hàng nhìn theo
chị vừa lo lắng, vừa thương hại, và cũng vừa có chút trách móc. Anh đang chuẩn
bị đóng cửa tiệm, chị bước tới đứng phía sau, gọi khẻ:
“Anh
Lượm”.
Anh
quay lui, sững sờ, mắt anh sáng rực, đôi mày anh nhíu lại, rồi anh thốt lên:
“Hiền
đó à, khỏe không em?”
Em
không muốn anh hỏi em như vậy. Hãy tát vào mặt em, chửi rủa hành hạ em và nếu
cần có con dao thái thịt trên bàn, anh có thể chém em một nhát. Em sẳn sàng tất
cả rồi, phải dùng những phương tiện tồi tệ nhất đối với em chứ đừng nhỏ nhẹ với
em như vậy. Em không có quyền nhận sự mềm mỏng, sự tha thứ nào của Anh và con…
“Hiền
vào quán, anh khóa cửa. Chúng ta nói chuyện không có ai quấy rầy”
Chị
nhìn quanh cửa tiệm, vỏn vẹn có năm cái bàn nhỏ, một quày tính tiền, hai bếp lò
than kê sát vách tường. Một quán phở bình dân dành cho dân lao động. Tài sản sơ
sài của anh khoảng chừng một trăm dollars, thế mà nuôi con ăn học đàng hoàng.
Chị kéo ghế ngồi vào bàn, hai tay chống trên bàn mặt cúi xuống, chị gỡ kính ra
lau nước mắt, nhưng nước mắt cứ trào. Chị khóc cho ai, cho chị hay cho anh? Chị
không còn phân biệt được, nhưng có một điều nước mắt sẽ làm cho người đàn ông
phấn chấn và xiêu lòng. Anh kéo ghế ngồi đối diện, không nói một lời, nhìn chị
khóc cho hả bớt sự tức tối, đay nghiến chính mình. Sau một hồi lâu, anh mới lên
tiếng:
“Em
đừng chống tay lên bàn dơ tay áo. Hôm nay anh chưa lau bàn”.
“Anh
đừng lo, cái dơ bẩn nầy nhằm nhò gì cái dơ bẩn của em đang mang trong người.
Mọi người biết chuyện đều xa lánh khinh bỉ em, chửi rủa mắng nhiếc em. Còn anh,
sao anh lại tiếp em, không hành xử thô bạo với em, để cho hả dạ mà em đã gây ra
cho anh…”
Anh
nhìn chị rồi cười:
“Như
vậy thì ích gì cho anh? Thú thật với em, từ lâu anh không còn biết giận hờn là
gì cho nên lòng anh mới được thanh thản. Nếu cứ mang hận thù mãi trong người,
chồng chất cái nầy lên cái kia, đến bây giờ chắc nó đã dìm anh chết mất. Nhưng
thôi, lâu quá mới gặp em, nói chuyện khác cho vui”.
“Chuyện
gì với em cũng không thể vui được. Từ khi ngồi trên máy bay em khóc mãi cho đến
bây giờ. Em nghĩ gặp anh, em sẽ bị xua đuổi, sẽ bị nguyền rủa thậm tệ. Em đã
chuẩn bị những tình huống xấu nhất. Dù thế nào, dù có chết em cũng phải gặp anh
và con, để cho em thấy được mặt, rồi sau đó ra sao cũng mặc”.
“
Cái gì mà ghê gớm đến thế. Tụi mình cũng đã bắt đầu mấp mé đến tuổi già, không
bằng lòng cái gì thì nói với nhau, gây cho nhau khó khăn để làm gì? Con Hậu nó
đi học ở Sài Gòn, em cần thì anh cho địa chỉ để vào gặp nó. Còn anh bao giờ
cũng vậy, tà tà sống qua ngày, không còn bị ràng buộc những bon chen, những
tranh giành. Bây giờ anh không còn gì để mất, một cơn bão đã bật tung cội rễ,
một canh bạc đã làm khánh tận. Có ngồi than thân trách phận cũng chẳng được gì.
Chi bằng mình gạt bỏ tất cả để sống cho mình, cho con. Đủ rồi”.
Chị
ngồi trước mặt anh, cách nhau một cái bàn, có thể nắm lấy tay nhau được. Thế
nhưng sao hai người có một khoảng cách rộng lớn quá. Anh sống cho mình, cho
con, nhưng chị cứ nghĩ anh đang sống cho tha nhân, lòng anh mở toang. Anh rộng
lượng như Bồ Tát, tính tình anh thay đổi một cách lạ kỳ. Ngày xưa chị
khiếp sợ trước cơn giận dữ của anh, đôi mắt anh sáng quắc nhìn chị như ăn tươi
nuốt sống. Chị tránh nhìn vào đôi mắt đó, hình như nó có một cái gì đó làm cho
chị khiếp sợ, thuần phục. Thế nhưng sau cơn giận, bao giờ anh ôm chị rồi xin
lỗi chị trước. Còn bây giờ cũng đôi mắt đó sao nó có vẻ lung linh dịu hiền, có
một thần lực sâu kín, một cái nhìn vị tha. Còn chị, chỉ biết bo bo sống cho
mình, hẹp hòi, ích kỷ. Luôn luôn nghĩ tới lợi ích, chà đạp lên tất cả, bất chấp
dư luận. Chị đã ruồng bỏ chồng con, xem như họ không có mặt trên cuộc đời
nầy. Chị quên họ để dễ bề tái lập một cuộc sống mới cho đỡ hổ thẹn với lương
tâm. Mà làm gì có lương tâm khi con người không còn tình thương yêu đồng loại,
đừng nói gì đến tình máu mủ ruột thịt. Anh đang ngồi bên kia đối diện. Cái áo
thun cũ mèm, chiếc quần tây mốc thếch, đôi dép Nhật mòn lẳng. Vẫn đôi lông mày
rậm rạp, mái tóc muối tiêu bềnh bồng một chút phong trần, vẫn hồn nhiên tươi
cười, thanh thản. Một tấm lòng rộng lượng. Trông anh sao oai vệ, lớn lao quá.
Còn chị, trong bộ áo quần đắt tiền, sang trọng. Khuôn mặt hồng hào trắng trẻo.
Sao chị vẫn cảm thấy mình thấp hèn và u tối quá.
“Anh
thù ghét em, khinh bỉ em, phỉ nhổ em... anh làm đi, hãy làm đi để em được thấy
mình bị trừng phạt, bị nguyền rủa. Em không mong anh và con tha thứ, mọi thứ
nầy em không xứng đáng nhận lãnh. Về đây, em chỉ mong thấy được anh và con, rồi
em có chết cũng thỏa lòng”.
“Tại
sao em phải đày ải mình như vậy để làm gì? Được em còn nhớ tình xưa đến thăm
cha con anh, đó là diễm phúc lắm rồi. Chúng ta không còn nợ gì với nhau, hãy để
mọi chuyện yên nghỉ. Nếu em còn ở đây thỉnh thoảng đến thăm anh, còn vào Sài
Gòn thì đến thăm Hậu, nếu em có thì giờ. Cuộc sống của cha con anh như một cổ
máy vận hành đều đặng, mười mấy năm không ngơi nghỉ. Em về, tự nhiên anh cảm
thấy có một chút giao động, cuộc sống như chựng lại. Hy vọng mọi chuyện sẽ trở
lại như cũ”.
“Có
phải chăng đó là lời cảnh cáo? Đừng làm phiền anh phải không?”
Anh
nhìn đi chỗ khác:
“Em
nghĩ sao cũng được, bây giờ không phải lúc tranh cãi những chuyện vu vơ. Anh
không nói như vậy. Nhưng nếu em nghĩ như vậy thì cũng chẳng sao. Từ lâu anh
sống trong cô đơn quen rồi, em về khuấy động lòng anh không ít. Dù có dửng dưng
thì cũng bị một cái ”sốc”. Anh thấy tủi thân. Hay là em đừng tới nữa, để anh
yên vị với cách sống xưa nay của mình”.
Chị
bật khóc nức nở, anh đã thẳng thừng đuổi chị nhưng chị cảm thấy như vừa lòng.
Bây giờ chị mới nhận được một chút hất hủi, ít ra nó phải mang một cái gì đó
thể hiện sự trừng phạt. Mười lăm năm, anh đã đắng cay trong cực khổ, chờ
vợ thương tình gửi cho một ít tiền nuôi con, vợ lờ đi. Anh bữa đói bữa no, hy
sinh cho con. Những nhọc nhằn trong thời kỳ khó khăn đó, anh không quên được.
Bây giờ đời sống đã tạm ổn dù vẫn nghèo khó, vẫn chật vật, nhưng không ở trong
tình trạng bức bách như hồi trước. Anh tự cảm thấy bằng lòng với mình. Mỗi
tháng gửi cho con một ít tiền ăn học, dặn dò con cố gắng dè xẻn trong số tiền
ít ỏi đó. Tội nghiệp con bé, biết cha khổ cực nên không dám tiêu một đồng bạc
nào phung phí. Con bé nói với cha nhiều lần là nó phải học. Chỉ có học sau nầy
mới giúp được cha thoát khỏi cái cảnh nghèo khó. Con bé khôn lanh từ nhỏ, đã lăn
lóc với cha trong mưu sinh, trưởng thành trong chật vật, nên hiểu cái giá trị
đồng tiền tạo ra từ mồ hôi, từ khổ nhọc. Chính vì vậy nên anh cũng yên lòng khi
phải xa con.
Sau
khi những xúc động, những ngỡ ngàng gặp lại nhau trôi qua. Bây giờ anh nhìn chị
một cách kỹ càng, để xem một con người hiền hậu, thương yêu chồng con của thủa
nào, sau một thời gian ngắn đến Mỹ, đã chối bỏ quá vãng của mình một cách dễ
dàng, ruồng bỏ chồng con. Anh lắc đầu, không thể hiểu nổi lòng dạ con người,
khéo léo che đậy bên trong một sự phản phúc thối tha. Cái nhận xét của anh có
trung thực không? Có cay nghiệt không? Hay anh là một nạn nhân của hoàn cảnh
nên phán xét sự việc nghiệt ngã như vậy. Anh đã cố quên đi những uất hận, những
khổ đau của một con người sống cô thế nghèo hèn, bằng lòng với những gì mình
tạo ra được, cuốn mình trong cô đơn. Từ lâu đã quen sống trong một môi trường
chật vật, không còn tha thiết đến chuyện lập lại gia đình. Anh ngán ngẩm với
lòng người. Khi mới học tập trở về, nghe tin vợ đến Mỹ, anh mừng lắm. Như vậy
đời sống của cha con anh có một tia hy vọng, sẽ được vợ trợ cấp, rồi một ngày
nào đó sẽ được vợ bảo lãnh. Thế nhưng năm nầy qua năm khác, trông ngóng dài cổ
vợ vẫn biệt vô âm tín. Cha con anh sống trong khổ cực, trong thiếu thốn phải
cắn răng chịu đựng. Tất cả các ước mong trong anh đều tan biến, không còn một
tia hy vọng nào. Cũng may, giữa lúc khó khăn như vậy thì một người bạn được gia
đình bảo lãnh đi Mỹ, bán lại tiệm phở bình dân nầy bằng cách trả góp. Một cái
phao vớt anh ra khỏi sự ngụp lặn trong bon chen, dù nó không đắt khách lắm
nhưng sau khi trang trải mọi thứ, cha con anh cũng có một cuộc sống tạm ổn.
Anh
nói với chị:
“Con
Hậu giống em như tạc, nhưng nó không hiền hậu khéo léo bằng em. Nó sống với cha
từ nhỏ nên tính tình của nó cứng rắn, dứt khoát”.
Không
hiền hậu khéo léo bằng em, sao anh không nói nó không điêu ngoa, không lừa lọc
như em. Để em dễ dàng nhận thấy mình còn được một diễm phúc, là con em ít ra nó
khác xa mẹ nó về tính nết, về xử sự, về nhân tính…Anh đã ném cho em một cục đường,
mà khi nuốt vào mắc ngang cổ họng.
Cái đau của sự ngọt ngào nầy như một chất
cường toan thiêu đốt em. Sao anh vẫn còn đối xử với em nhẹ nhàng để làm gì? Khi
mà em muốn mọi người phải hành hạ em, phải chửi rủa em. Mười lăm năm nay em
chưa thấy mặt con, nhưng em biết nó là một đứa bé ngoan, một mình đi xa trọ
học, quyết tâm thay đổi cuộc sống khá hơn sau nầy, để giúp cha thong thả trong
tuổi già sức yếu. Nội cái suy nghĩ đã đượm cả một nhân sinh quan đạo đức đó
thôi, đủ biết nó sống hết mình với thân thuộc. Hậu là con em, nhưng bỏ xa một
khoảng cách dài trong quan niệm sống của em. Nó rộng rãi với người thân bao
nhiêu thì em nhỏ nhen ích kỷ bấy nhiêu. Quả thật em không còn xứng đáng một
người mẹ, nhưng cũng may cho em, an ủi được em là con em đang là một thiên
thần, trong lúc em đã là một quỷ sứ.
“Em
à, anh phải đi chợ chiều nay, rồi về nhà nấu, để ngày mai dậy sớm bán hàng. Bây
giờ đã trễ quá rồi, sợ người ta không chờ mình được”.
“Anh
có thể đóng cửa vài hôm được không? Em năn nỉ anh, cho em xin một cơ hội được
gần anh với con vài ngày. Rồi sau đó em sẽ ra đi không còn làm phiền lòng anh
nữa”.
“Anh
nghĩ, chúng ta đã trao đổi với nhau đủ rồi, cái gì cần thì đã nói. Không cần
phải kéo dài ra thêm để làm gì. Chân đã bước qua khỏi lằn ranh, không rút lại
được. Tiếc nuối làm gì thì cũng vậy thôi”.
Chị
gục xuống bàn khóc. Cũng tiếng khóc nầy, cũng con người nầy mà ngày xưa
khi giận dỗi chị vào buồng lên gường nằm khóc, dù có tức giận cách mấy nghe chị
khóc anh không làm sao chịu được, nó rưng rức, nghẹn ngào đã làm cho anh xốn
xang. Bao giờ anh cũng thua cuộc trước. Lấy khăn lau nước mắt, dỗ dành chị. Còn
bây giờ, cũng tiếng khóc đó nhưng sao anh cảm thấy xa lạ. Nó không đánh động
được lòng anh. Sao vậy? Mười bảy năm từ khi anh vào trại cải tạo, anh không còn
được nghe chị khóc. Bao nhiêu năm xa nhau đã làm cho con người anh chai lì,
không còn biết rung động, ngược lại anh thù ghét tất cả. Cũng may anh còn đứa
con gái là chiếc phao cuối cùng anh vịn vào đó để sống. Những năm đầu, anh oán
hận chị nhưng dần dần về sau nguôi ngoai, mang làm gì cái đó trong người cho
thêm nặng nề. Tự nhiên cuộc sống được bảo hòa, anh cố quên đi tất cả để sống
thoải mái an lạc.
“Thôi
được, anh treo bảng đóng cửa vài ngày vì bận việc gia đình, để khách khỏi phải
đợi”.
Anh
vẫn chìu chị, anh cứng rắn lắm kia mà, sao lạ vậy? Anh cũng không biết tại
sao mình lại mềm lòng như thế. Chỉ vài ngày rồi chị ra đi, anh không nỡ khi chị
trở qua bên kia mà còn mang trong lòng u uất, dù điều nầy xứng đáng với hình
phạt bỏ bê chồng con của chị. Thôi, mọi chuyện đâu vào đấy. Gây thêm làm gì
những rắc rối cho người khác. Anh phân vân có nên gọi Hậu về thăm mẹ, hay để mẹ
vào Sài Gòn rồi đến thăm con. Hậu là đứa con gái cứng đầu, thù ghét dai dẳng
chắc gì nó tiếp mẹ, mặc dù nó cần có mẹ. Anh đề nghị với chị nên đánh điện tín
gọi Hậu về, dù gì có anh bên cạnh nó cũng không dám đay nghiến mẹ hay lỡ lời
với mẹ. Anh về nhà tắm rửa thay đồ rồi lấy chiếc xe honda cà tàng của mình chở
chị ra bưu điện. Chiếc xe nầy thuộc loại cũ mèm, khi qua tay anh nó chưa có hân
hạnh chở người, mỗi ngày anh dùng nó chở thịt, bánh phở, rau v.v.. mọi thứ cho
tiệm phở của anh. Đây là lần đầu tiên chở người. Sau khi suy nghĩ, anh đánh
điện tín cho Hậu với nội dung: “Hậu, Ba đau nặng. Mua vé máy bay về gấp”.
Sau
hơn mười bảy năm, bây giờ chị mới ngồi phía sau xe anh chở. Chị cảm thấy thật
hạnh phúc, tay chị ôm ngang lưng anh, đầu tựa vào vai, chị được ngửi lại mùi da
thịt quen thuộc của những ngày êm ả thủa nào. Chị cảm thấy thương quá, thân
hình anh ốm o, vóc dáng như nhỏ lại. Ước gì hai tay chị được ôm siết anh thật
chặt như ngày xưa, cái mơ ước thật nhỏ bé, thật đơn giản, đang ở trong vòng tay
chị. Thế nhưng nó quá xa vời, chị không đủ can đảm tiến tới thêm, hình như nó
đang có một lực cản mà chị không tiến tới được, vừa xấu hổ vừa quý trọng đang
âm ĩ trong người chị.
“Em
có cần đi đâu nữa không?”
“Anh
chở em đi vòng thành phố một chút được không? Em muốn nhìn thấy lại thành phố”.
Anh
không thấy gì ở chị một sự thay đổi, vẫn nhỏ nhẹ như ngày nào, vẫn còn thùy mị
mà sao trong lòng chị thay đổi nhiều như vậy. Anh không muốn hỏi về gia đình
của chị ở Mỹ, vì anh sợ đụng tới một sự thật phủ phàng. Thôi hỏi để làm gì, khi
mà mọi thứ đều nằm ngoài tay với, biết để rồi ấm ức chứ ích gì. Anh đưa chị đi
những nơi mà ngày xưa vợ chồng hay lui tới, khung cảnh tuy có đổi khác, nhưng
trong lòng của hai người vẫn còn đọng những dấu ấn. Chị xin anh cho chị về nhà
ở vài ngày được không, để chờ con Hậu về rồi tính sau. Anh phân vân, lại làm
khó cho anh nữa rồi. Cũng may căn nhà anh mới xây lại năm vừa qua, tuy không
tiện nghi nhưng cũng có nơi để chị nghỉ. Ghé qua khách sạn để chị lấy đồ đạc.
Anh ngạc nhiên, đi bao lâu mà mang đồ nhiều quá vậy, bốn cái va-li và một cái
xách tay, phải nhờ khách sạn gọi taxi chở đồ.
Khi
xe về tới đầu hẻm, cả xóm chạy ra nhìn chị. Chị cảm thấy thẹn thùng, cúi đầu đi
nhanh vào nhà. Chị còn nghe tiếng trằm trồ: “Bà đẹp quá, giống con Hậu như
đúc”. Hàng xóm phụ anh mang va-li vào nhà, không quên chúc mừng anh đoàn tụ.
Anh nghe như có cái gì mỉa mai, thấm đau. Có ai biết được nội tình của anh bây
giờ. Vợ sờ sờ ở đó mà không phải của mình. Xa nhau lâu ngày khi gặp lại mà
trong lòng vẫn bình lặng.
“Tối
rồi, em muốn ăn gì anh chở đi”.
“Em
ăn chay, mười lăm năm nay”.
Anh
nghe như có cái gì đó chói tai. Ăn chay mười lăm năm nay để rồi bỏ bê chồng con
như vậy sao? Con người nầy càng gần càng thấy khó hiểu. Những người có tâm
nguyện ăn chay thì phải hướng về những điều lương thiện. Việc của chị đối xử
với cha con anh mười lăm năm nay không có chút lương thiện tí nào. Anh không
thể nào hiểu nổi lòng dạ đàn bà.
Hai
ngày sau, Hậu về tới nhà. Bước vào cửa, Hậu nhìn thấy chị, kinh ngạc và biết
ngay người đó là mẹ mình. Hậu quay mặt vào vách khóc nức nở, tiếng khóc mang
nhiều suy nghĩ lẫn lộn: trách móc, thù ghét, mừng tủi v.v.. chị lại gần ôm con.
Mười lăm năm bao giờ chị cũng nghĩ tới con, chính vì nó mà chị giữ lại mạng
sống nầy. Ai hiểu được cái đau khổ tột cùng của chị. Nước mắt chị rơi trên vai
con.
Hậu
nói trong nước mắt:
“Từ
lâu con cứ nghĩ mẹ đã chết”.
“Vâng,
chính mẹ cũng nghĩ rằng mẹ đã chết. Hãy tha thứ cho mẹ”.
Khi
ra đi, con mắt của con cứ đau đáu trông chờ chị. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày
chị cầu nguyện cho chồng con chóng quên chị, xem như chị đã bỏ thây trên biển
đông. Chị không liên lạc để cho chồng con nghĩ rằng chị đã chết. Nhưng mỗi lần
toan tính quyên sinh là mỗi lần chị thấy đôi mắt của đứa con hốt hoảng nhìn
chị, nên chị phải dừng lại ý định nầy. Thế mà chị không đủ can đảm bắt liên lạc
với chồng con. Chị sợ rằng sẽ gây cho họ một sự đau khổ, một nhát chém trên
lưng mà không bao giờ lành được. Mười lăm năm, chị không thể chờ thêm được nữa.
Phải trông thấy được mặt con, mặt chồng rồi qua lại Mỹ quyết định mọi chuyện”.
Chị
ôm vai Hậu lay nhẹ:
“Hậu
à, cho mẹ xin lỗi. Về đây mẹ mới biết được một điều là ba và con hận mẹ, nhưng
không xua đuổi mẹ. Rồi đây con sẽ hiểu mẹ hơn. Cho đến bây giờ mẹ vẫn ở vậy,
không có gia đình. Làm sao mà tái giá được khi mà lòng mẹ bao giờ cũng nghĩ về
ba và con. Nhưng thôi chuyện nầy sẽ nói với con sau”.
Anh
giật mình nhìn sửng chị. Hậu nín khóc ngay, quay lui nhìn mẹ. Tất cả chờ đợi.
Chị
thong thả nói với con:
“Mẹ
không nói dối con. Mười lăm năm nay mẹ chỉ biết đi làm, về nhà tụng kinh rồi đi
ngủ, ngày nào cũng vậy. Chỉ có cuối tuần đi chợ mua thức ăn. Mẹ nghĩ rằng Ba
bây giờ đã có vợ khác. Không ngờ mọi chuyện không như vậy. Tội nghiệp, tất cả
đều do mẹ”.
“Thật
hả mẹ, con mừng quá”.
Chị
ôm con vò đầu:
“Trong
bốn cái va-li mẹ mang về, áo quần của con và Ba. Còn mẹ đồ dùng chỉ trong xách
tay. Qua lại Mỹ dần dần mẹ sẽ chuyển tất cả tiền về cho con và Ba tùy nghi. Đó
là số tiền dành dụm mười lăm năm của mẹ”.
*
Thay
đoạn cuối
Thưa
chị Hiền,
Chị
đã kể cho tôi nghe câu chuyện của đời chị. Chuyện quá sức thương tâm của một
người đàn bà bị dày vò bởi những nghịch cảnh trên biển đông, trong lúc vượt
biển. Mà sau nầy không dám nhìn lại chồng con. Luôn luôn bị dằn vặt, ám ảnh bởi
những hình ảnh dã man của một lũ người mọi rợ, dày xéo trên thân thể của những
người đàn bà cô thế, vô tội. Làm cho nhiều người xem mình như đã chết,
không dám nhìn lại những người thân, trong đó có chị. Có một điều, sau mười lăm
năm chị mới tỉnh người và có một quyết định sáng suốt trở về gặp lại chồng con.
Tôi
không đủ chữ nghĩa để mô tả lại cái đau khổ tột cùng của chị, cái chờ đợi mỏi
mòn của chồng con chị. Tôi là người ghi nhận vô cùng thiếu sót, mong chị lượng
tình tha thứ. Song tôi nghĩ dù sao đi nữa câu chuyện nầy cũng làm cho nhiều
người cùng hoàn cảnh thấy được chính mình, cho người khác thông cảm những mảnh
đời oan ức của những người đàn bà bị làm nhục, bị dày xéo, đọa đày. Tôi nghĩ,
tất cả mọi người nghiêng mình kính phục những người như chị. Đó là vấn nạn khổ
đau chung của dân tộc chúng ta, trong một hòan cảnh bi đát của đất nước. Thế
giới phải sửng sốt, lương tâm của những con người được đánh động và tình thương
đã thắng.
Tôi
mong rằng chị sẽ được sống thanh thản với chồng con, với cộng đồng loài người
và tự hào tình thương đã đùm bọc lấy nhau, san sẻ cho nhau và tương kính nhau
để sống.
Chúc
chị và gia đình thành công trên bước đường còn lại.
Phan
xuân Sinh
Apr
17, 2011
Bước
Không Qua Số Phận. image. 1.Tôi học chung với Nhân từ năm đệ ngũ. Trước đó, tôi
có năm năm học nội trú trường Pellerin, một trường dòng Lasan ở Huế do các
frère giảng dạy. Những năm học ở đó, tôi luôn đứng ...
Apr
19, 2011
Thù
chồng. image. Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc
trung học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ
Tam được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha ...
Jul
16, 2014
Thù
chồng. image. Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc trung
học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ Tam
được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha .
Apr
20, 2011
Xóm
tôi có một nhân vật đặc biệt mà từ đứa trẻ nhỏ cho chí người lớn tuổi, ai cũng
kêu là "chị Tám lại cái” hay "bà Tám lại cái". Đã là chị, là bà
sao lại còn kêu là “lại cái” ? Nhìn dáng bên ngoài, chị đích thị là một một
người ...
Apr
18, 2011
Chị
Cả Bống. image. Xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05.
Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài "nổi
loạn" này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại
số báo ngày 8/6 này đang được phô tô ..... Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là
12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào
huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng.
Chôn đứng rẻ ...
Apr
14, 2011
Các
chợ chỉ bán bia với nồng độ 3 phần trăm. Kết hợp với "Lời Thông Sáng"
của đạo Mormon, đạo hữu không cờ bạc, không hút thuốc, không uống các loại nước
có ga và có màu khiến cho đời sống nơi đây yên bình hơn, ...
Apr
13, 2011
Không
ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và
qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt
và đứa cháu nội chưa từng biết mặt... * Tháng tư ...
Aug
04, 2011
Cháo
tóc. image. http://baomai.blogspot.com/. Trên hai mươi năm rồi còn gì ! Thế mà
tôi không bao giờ quên nổi kinh hoàng xảy ra nửa khuya hôm đó... Cả gia đình
đang yên giấc, bỗng nghe tiếng xe hơi từ lộ chính chạy vào, ...
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.