Tàu
Trung Cộng hộ tống giàn khoan HD 981
Sau
hai tháng hiện diện đầy sóng gió, hôm nay 16/07/2014 Trung Cộng đã cho rút giàn
khoan Hải Dương Thạch Du 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại
Biển Đông, đưa về khu vực đảo Hải Nam. Nhiều người thở phào nhẹ nhõm, nhưng
cũng có nhiều ý kiến lo âu về khả năng chế độ bành trướng Bắc Kinh, với tham
vọng không hề giấu diếm, sẽ quay trở lại với những chiêu trò mới.
Vì
sao Trung Cộng lại rút giàn khoan vào thời điểm này, sớm một tháng so với tuyên
bố trước đây là sẽ hoạt động đến ngày 15/8 ? Chúng tôi đã đặt vấn đề này với
nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Sài Gòn .
RFI : Thân
chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Anh nhận xét như thế nào về sự kiện Trung
Cộng rút giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam tại Biển Đông ? Theo anh, Bắc Kinh đã đạt được những mục đích của họ
hay chưa ?
Nhà
bình luận Phạm Chí Dũng : Trung Cộng có nhiều mục tiêu và kỳ vọng trong
việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở
Biển Đông. Ít nhất là họ gây áp lực với Hà Nội về những mục tiêu chính trị. Thứ
hai là gây áp lực về giao thương giữa Trung Cộng và Việt Nam . Họ muốn chiếm lợi thế nhiều
hơn nữa trong tương lai, chứ không chỉ xuất siêu 23 đến 24 tỉ đô la một năm.
Thứ ba, họ đặt vấn đề về thăm dò, chào thầu dầu khí trên Biển Đông, thậm chí có
thể lấn sang cả vùng lãnh hải của Việt Nam .
Thứ
tư là về quốc tế : mục tiêu của Trung Cộng là thử phản ứng của người Mỹ và
phương Tây, kể cả người Úc đối với vấn đề này. Nếu phương Tây chấp nhận
hình ảnh Trung Cộng đương nhiên ngự trị ở Biển Đông, thì lúc đó Trung Cộng sẽ
đi tiếp những bước nữa, thực hiện chiến lược dài hơi là xâm lấn xuống khu vực
biển phía Nam và có thể làm cho cả người Úc thiệt thòi.
Đó
là khá nhiều mục tiêu của Trung Cộng, chưa kể họ giải quyết vấn đề nội bộ. Từ
năm 2011, cứ khi nào « nội Hán », trong lòng Trung Cộng xảy ra những xáo động
về xã hội và chính trị bất lợi, thì Bắc Kinh lại hướng dư luận của người Trung
Cộng ra Biển Đông.
Tuy
vậy, việc giàn khoan Hải Dương 981 rút trước thời hạn 15/08/2014 một tháng,
cùng với việc Trung Cộng bất ngờ thả 13 ngư dân Việt Nam, cho thấy một sự thay
đổi về cách tính toán, cách nhìn và chiến thuật của Trung Cộng. Nhưng có lẽ
nguyên do sâu xa khiến Trung Cộng thay đổi như vậy không phải là do tác động từ
phía chính quyền Hà Nội, vì trong thực tế thì Hà Nội đã gần như không tạo ra
được một áp lực gì.
Ngay
cả lời đề nghị của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Cộng đàm phán về vấn
đề Biển Đông cũng bị ông Tập Cận Bình từ chối. Quốc hội Việt Nam trong suốt một
tháng trời ròng rã họp vào giữa năm nay cũng đã không ra nổi một bản nghị quyết
về Biển Đông. Và cũng chưa từng có một động thái gì về phía cơ quan ngoại giao
hoặc quốc phòng của Việt Nam để đòi người và tạo ra những ảnh hưởng, tác động
quân sự đủ mạnh, để Trung Cộng phải rút giàn khoan Hải Dương 981 hay ít nhất
cũng hạn chế sự xuất hiện của tàu bè và máy bay quân sự ở khu vực Biển Đông.
Như
vậy lý do còn lại chỉ là áp lực của quốc tế.
RFI : Anh
có thể nói rõ hơn về tác động quốc tế ?
Áp
lực quốc tế tôi cho là càng ngày càng lớn dần. Và sự xuất hiện của giàn khoan
Hải Dương 981 cũng như một số giàn khoan khác của Trung Cộng ở khu vực Biển
Đông đã làm cho người Mỹ khá bất ngờ. Có lẽ trước đây họ không nghĩ rằng Trung
Cộng lại trở nên một vật cản lớn đến thế đối với chiến lược xoay trục sang châu
Á – Thái Bình Dương của nước Mỹ.
Nếu
Trung Cộng trở thành một vật cản đủ lớn cho chiến lược xoay trục của Mỹ có thể
sẽ thất bại, hoặc ít ra cũng đang gặp những tiền đề cho sự thất bại, về an
toàn, an ninh hàng hải của Mỹ tại Biển Đông. Bên cạnh đó còn có thể ảnh hưởng
tới dự án kinh đào Kra cắt ngang Malaysia vào năm 2020, và ảnh hưởng đến hàng
loạt quốc gia ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Malaysia và
cả Úc nữa.
Vấn
đề này ảnh hưởng tới khu vực Đông Á nói riêng và quốc tế nói chung. Từ khi giàn
khoan Hải Dương 981 xuất hiện tại Biển Đông, các nước trong khu vực đã tự động
liên kết, xích lại gần nhau, tạo ra một « liên minh quân sự » dù chưa chính
thức.
Cuối
tháng Tư, khi Tổng thống Barack Obama đặt chân đến Manila, thì giữa hai quốc
gia Hoa Kỳ và Philippines đã hình thành ngay một Hiệp ước tương trợ quốc phòng.
Đó là điều mà tôi cho là chính giới Hà Nội đặc biệt đang thèm muốn chuyện này
nhưng chưa có được !
Khi
đã có Hiệp ước tương trợ quốc phòng, Philippines tiếp tục kiện Trung Cộng ra
tòa quốc tế, tiếp tục bắt giữ các tàu cá Trung Cộng xâm phạm vùng lãnh hải của
mình. Cũng giống như Hàn Quốc đã từng bắt giữ tới năm trăm tàu cá của ngư dân Trung
Cộng xâm phạm lãnh hải. Đó là những phản ứng của quốc tế.
Và
vừa rồi vào tháng 6/2014, lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ của mình, Tổng thống
Barack Obama khi nói chuyện tại trường võ bị lớn nhất của nước Mỹ là West
Point, đã đề cập tới khả năng Mỹ điều động binh lực tới khu vực Biển Đông. Hàm
ý là Hạm đội 7 có thể hỗ trợ các đồng minh của Mỹ trong khu vực như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Philippines, và có thể cả Việt Nam nữa.
Vừa
qua Thượng viện Mỹ cũng lần đầu thông qua bản nghị quyết số hiệu 412 về vấn đề
xung đột Biển Đông, yêu cầu Trung Cộng trở về nguyên trạng thời điểm trước
tháng 5/2014. Đây chính là thời điểm mà Trung Cộng đưa giàn khoan Hải Dương 981
vào Biển Đông.
Như
vậy là đã có hàng loạt áp lực của quốc tế đối với Trung Cộng. Và ngay đầu tuần
này đã diễn ra cuộc viếng thăm Hà Nội của một viên cố vấn đặc biệt Tổng thống
Mỹ là ông Evan Medeiros. Điểm nhấn trong cuộc gặp này mặc dù chưa được tiết lộ
một cách chính thức, nhưng đã đề cập tới một số vấn đề như nâng tầm quan hệ về
quốc phòng giữa hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ.
Và
nếu không có gì thay đổi, mọi chuyện diễn ra thuận lợi, có thể tháng 9 này ông
Chuck Hagel, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ sẽ có chuyến làm việc tại Việt Nam. Sau đó
có thể sẽ hướng đến một sự tương trợ - tuy chưa nâng thành mức hiệp ước, nhưng
có thể là tương trợ ở một tầm mức nào đó của Hoa Kỳ đối với Việt Nam . Trước mắt
là quan hệ giao lưu giữa Hạm đội 7 và Hải quân Việt Nam .
Đó
là những điều mà phía Trung Cộng không thể ngờ tới. Việc họ phải rút giàn
khoan, vì thấy bất lợi đối với họ. Họ đã làm cho phản ứng của phía Việt Nam lớn hơn
những gì mà họ chờ đợi. Thậm chí cả những người như ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng cũng phải thay đổi giọng nói.
Trước
đây ông Nguyễn Phú Trọng luôn đề cập tới « 16 chữ vàng, 4 tốt » và quan hệ hữu
hảo với Trung Cộng, luôn khuyên cấp dưới cần phải kiên định giữ vững lập trường
hòa hiếu với « bạn tốt » Trung Cộng, nhưng gần đây ông đã phải nói tới việc
chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất. Có thể ngầm hiểu « tình huống xấu nhất
» ở đây, không loại trừ đó là tình huống chiến tranh.
Những
phản ứng quốc tế, theo tôi đó là lý do sâu xa làm cho Trung Cộng phải thay đổi
thái độ, kể cả thay đổi hành động trong thời gian vừa qua.
RFI : Thưa
anh như vậy mặc dù Hồng Lỗi tuyên bố không nên xem đây là một động thái rút
lui, nhưng có lẽ trận bão Rammasun sắp thổi tới chỉ là cái cớ ?
Bão
Rammasun cấp 12, 13 thật ra không phải là quá lớn. Theo bản thiết kế đầu tiên,
giàn khoan Hải Dương 981 cũng như những giàn khoan tương đương có thể chịu được
siêu bão cấp 15, 16. Như vậy đây chỉ là cái cớ mà Trung Cộng đưa ra để giữ thể
diện khi họ rút giàn khoan. Vì duy trì giàn khoan này ở khu vực đặc quyền kinh
tế của Việt Nam
ở Biển Đông đã không còn hiệu quả như mong muốn của họ nữa.
Họ
gây ra những phản ứng về mặt xã hội đối với người Việt Nam , gây ra
những phản ứng quốc tế, và đặc biệt phải tính đến vấn đề chi phí của giàn khoan.
Một
chuyên gia Singapore đã tính toán, Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Cộng
mỗi ngày đã phải chi ra khoảng 328.000 đô la chỉ để duy trì sự tồn tại của giàn
khoan Hải Dương 981, chưa nói tới việc hoạt động. Còn nếu tính luôn cả gần 100
tàu chiến, tàu kiểm ngư, tàu hỗ trợ quân sự của Trung Cộng thường xuyên lởn vởn
xung quanh giàn khoan này, thì con số chi phí mỗi ngày có thể lên tới hàng
triệu đô la ! Như vậy mỗi tháng Trung Cộng phải chi tới khoảng 30 triệu đô la
cho cụm giàn khoan Hải Dương 981.
Đối
với một đất nước Trung Cộng, dù có nền kinh tế được coi là đứng thứ nhì thế
giới, nhưng giới quan sát phương Tây vẫn phân tích rằng Trung Cộng thực sự ra
chỉ là một « nước giàu, dân nghèo » mà thôi. Thu nhập bình quân đầu người vẫn
chỉ ở mức trung bình thấp, chứ chưa thể so sánh được với Nhật Bản, Hàn
Quốc…Thành thử bất lợi của Trung Cộng vừa qua đã thấy rõ, và đó là lý do mà Bắc
Kinh phải rút giàn khoan trước thời hạn một tháng.
RFI : Bên
cạnh đó, việc duy trì giàn khoan và hàng loạt tàu bảo vệ cũng có nguy cơ gây
leo thang xung đột bất ngờ ?
Hoàn
toàn có khả năng gây leo thang chiến tranh, trong trường hợp một sự cố xảy ra
trên biển chẳng hạn. Chiến lược của cả hai bên là không hành động trước, hoặc
không dùng tới vũ khí. Nhưng trong những va chạm thì không ai có thể biết trước
được việc gì. Và nếu một trong hai bên nổ súng trước, không biết chuyện gì có
thể xảy ra !
Tôi
nhớ vào năm 1982 tại quần đảo Islas Malvinas ở châu Mỹ, cuộc chiến giữa Anh và
Achentina đã xảy ra cũng vì những lý do được coi là nhỏ nhặt. Một trong hai bên
nổ súng trước, dẫn tới một cuộc chiến tranh kéo dài khoảng hai tháng trời. Cuộc
chiến tranh tiềm ẩn trong tương lai giữa Trung Cộng và Việt Nam trên biển cũng có thể xảy ra từ
những lý do như vậy.
RFI : Giàn
khoan Trung Cộng có lẽ cũng là sự kiện mà người Việt trong và ngoài nước đều
hết sức chú ý…
Có
lẽ Bộ Chính trị của Trung Cộng đã quá chủ quan trong việc đưa giàn khoan Hải
Dương 981 vào khu vực đặc quyền kinh tế Việt Nam . Họ không tính trước được phản
ứng về mặt xã hội của người Việt. Họ chỉ tính được phản ứng của chính quyền
Việt Nam .
Và tôi nghĩ rằng có thể họ đã âm thầm nắm được, không chỉ phản ứng mà cả hành
vi của một số giới chức trong chính quyền Việt Nam trước sự kiện Hải Dương 981
nói riêng và sự xâm lấn nói chung của Trung Cộng.
Nhưng
họ lại không tính được phản ứng của xã hội Việt Nam ,
mà biểu trưng là hàng loạt cuộc biểu tình ở Hà Nội, Sài Gòn ,
sau đó lan sang Đồng Nai, Bình Dương và cả Vũng Áng (Hà Tĩnh). Điều đó cho thấy
người dân Việt Nam
vẫn luôn luôn nung nấu một quá khứ ngàn năm bị Bắc thuộc, và họ không chấp nhận
Bắc thuộc thêm một lần nữa ! Họ luôn sợ hãi việc Trung Cộng có thể xâm lấn Việt
Nam ,
gây ra tất cả những khổ nạn cho người Việt. Chính vì vậy đã liên tục diễn ra
những làn sóng phản kháng của người Việt Nam .
Cho
đến nay, theo một cuộc thăm dò của hãng BBC World Service, có đến hơn 80% -
chính xác là 84% người Việt Nam
không thiện cảm với Trung Cộng. Nói cách khác, tôi cho là khá nhiều trong số
84% đó ghét Trung Cộng, và qua sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 thì họ càng
mang mối hằn thù. Điều đó hoàn toàn bất lợi cho Trung Cộng.
Còn
về quốc tế, Trung Cộng cũng gặp rất nhiều bất lợi về mặt tâm lý xã hội. Chẳng
hạn cũng theo kết quả khảo sát của BBC, ở Hàn Quốc chỉ có 32% là có cái nhìn
tích cực đối với Trung Cộng, trong khi 56% mang tư tưởng ngược lại. Ở Nhật Bản,
tỉ lệ ủng hộ Trung Cộng xuống tới mức thấp kỷ lục là chỉ có 3% !
Trên
toàn châu Á, số người coi Bắc Kinh là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực lên
tới 73%. Ngay ở những nước phát triển như Anh, tỉ lệ nhìn Trung Cộng một cách
tiêu cực cũng lên tới 49%, ở Úc 47%. Và đặc biệt ở Đức chỉ có 10% người dân Đức
nhìn Trung Cộng với cặp mắt tích cực, trong khi đến 76% người Đức ghét cay ghét
đắng Trung Cộng. Đó chính là những bất lợi rất lớn, làm cho Trung Cộng trở
thành một trong những quốc gia bị thiếu thiện cảm nhất trong thời buổi hiện nay
trên thế giới.
Đấy
là về mặt xã hội. Còn về mặt kinh tế, Trung Cộng cũng gặp những bất lợi nhất
định. Mỗi năm Việt Nam
phải nhập siêu từ Trung Cộng từ 23 đển 24 tỉ đô la. Dù con số này chỉ chiếm
khoảng 1/20 trên tổng giá trị xuất khẩu của Trung Cộng mà thôi, nhưng cũng sẽ
trở nên đáng kể nếu như chiến tranh nổ ra khiến giao thương giữa Việt Nam và Trung
Cộng bị ngưng lại hoàn toàn. Không chỉ Việt Nam sẽ thiệt hại khoảng 10% GDP, mà
Trung Cộng cũng sẽ bị thiệt từ 15 đến 18 tỉ đô la một năm.
Chuyện
thứ hai là hoạt động đấu thầu – và luôn luôn thắng thầu, thắng tới 90% các vụ
đấu thầu, đặc biệt trong xây dựng, nhiệt điện của Trung Cộng – sẽ hoàn toàn phá
sản.
Thứ
ba, các đầu tư nước ngoài của Trung Cộng vào Việt Nam . Tuy rằng chưa phải là lớn so
với các nước khác, mới chỉ giá trị khoảng 5 tỉ đô la mà thôi, nhưng sẽ rất khó
khăn cho các doanh nghiệp Trung Cộng - đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất gia công
ngay tại Việt Nam để bán hàng Trung Cộng cho Việt Nam.
Thứ
tư nữa là một tháng rưỡi vừa qua, chính Bộ Công thương Việt Nam đã công bố rằng tỉ lệ người
Việt dùng hàng Việt tăng hẳn lên so với tỉ lệ người Việt dùng hàng Trung Cộng –
khá nhiều trước đây. Có nghĩa là tất cả những hàng hóa mang nhãn mác Trung Cộng,
nhập khẩu từ Trung Cộng trở nên khó bán. Có thể chứng kiến điều đó, chuyện
thường ngày tại các chợ đầu mối, chợ bán lẻ cũng như tại các siêu thị.
Tâm
lý người Việt ngán ngại dùng hàng Trung Cộng, các nhà nhập khẩu ngán ngại nhập
khẩu hàng Trung Cộng bây giờ đang trở nên phổ biến. Chưa kể tới một tinh thần
dân tộc « không sử dụng hàng Trung Cộng » cũng đang dần lan tỏa hơn. Đó là
những thất lợi của Trung Cộng về mặt xã hội và kinh tế.
RFI : Và
hình như chính quyền Bắc Kinh cũng quên tính đến một điều là qua sự kiện chấn
động vừa rồi, những người thân Trung Cộng bây giờ không dám lớn tiếng như trước
?
Có
một luồng dư luận sau khi xảy ra vụ Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Áng, cho rằng
lực lượng thân Trung Cộng ở Việt Nam như vậy là quá đông, có thể dẫn tới chi
phối hoàn toàn chính quyền ! Điều đó cũng đáng ngại thật, nếu nhìn vào hiện
tượng ở Bình Dương, Đồng Nai.
Nhưng
mà sau đó, khi Trung Cộng phải đột ngột thay đổi một số động thái như gần đây –
thả ngư dân Việt Nam và rút giàn khoan Hải Dương 981, cũng như tạm ngưng một số
hoạt động xâm lăng gây hấn đối với Việt Nam – có lẽ chúng ta cần nhìn lại vấn
đề rằng: mọi chuyện chưa đến nỗi tuyệt vọng đối với dân tộc Việt Nam !
Rằng
lực lượng thân Trung Cộng – những người thân Trung Cộng và những người thậm chí
được gọi là tay sai của Trung Cộng - chưa quá lớn để có thể lũng đoạn được toàn
bộ nền chính trị cũng như nền kinh tế và các vấn đề xã hội ở Việt Nam.
Ngược
lại, sự lộ diện khá sớm của những người này thông qua những vụ bạo động ở Bình
Dương, Đồng Nai ; về nguyên tắc hoạt động ngầm thì tất cả những người đã bị lộ
mặt đều không còn giá trị sử dụng, và sẽ đặt Trung Cộng vào một tình thế là
phải xem lại chiến thuật cài người vào Việt Nam trong thời gian tới.
RFI : Như
vậy theo anh việc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một thất
bại của Trung Cộng. Nhưng theo nhận xét của nhiều người, không chỉ giàn khoan
Hải Dương này, mà Bắc Kinh sẽ còn đưa nhiều giàn khoan đến vùng biển Việt Nam,
có những hành động khiêu khích quyết liệt hơn ?
Sau
sự kiện rút giàn khoan Hải Dương 981 trước thời hạn một tháng, tôi cho rằng Trung
Cộng sẽ không mạo hiểm đưa nhiều giàn khoan vào khu vực Biển Đông nữa. Tại vì
điều đó kém hiệu quả về một số mặt như chúng ta đã phân tích.
Thay
vào đó, họ thay đổi chiến thuật. Họ chuyển từ chiến thuật đưa giàn khoan vào
khiêu khích ở Biển Đông bằng chiến thuật, theo tôi là có thể bắt người. Chiến
thuật bắt người đã được Trung Cộng sử dụng rất phổ biến từ 2002 đến nay.
Mặc
dù tới nay chưa có một thông tin đầy đủ, chính xác nào của các cơ quan Việt Nam
về việc ngư dân Việt và thường dân Việt bị xâm hại, bắt giữ bởi Trung Cộng,
nhưng gần đây rất đáng sửng sốt là thông tin này lại được đưa ra bởi một người
mang hai quốc tịch là ông André Menras, có tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết.
Ông
đã có một thống kê riêng, là từ năm 2002 đến nay đã có tới 2.000 ngư dân Việt
Nam trở thành nạn nhân của Trung Cộng. Trong đó đến 30 ngư dân bị chết, 500 ngư
dân bị bắt giữ và gần 150 tàu thuyền của Việt Nam bị đánh chìm. Đó là những con
số mà các cơ quan Việt Nam
chưa bao giờ công bố một cách đầy đủ.
Đây
là chiến thuật nằm lòng của Trung Cộng, những tiền lệ trong quá khứ để tạo ra
những tiền lệ trong hiện tại và tương lai. Tôi còn cho rằng trong thời gian
tới, Trung Cộng không chỉ bẳt người trên biển mà còn trên đất liền. Việt Nam phải hết
sức cẩn thận, tỉnh táo và kiên quyết đối phó, trong trường hợp ngư dân bị bắt.
Vừa
rồi 13 ngư dân ở Quảng Bình và Quảng Ngãi bị Trung Cộng bắt giữ khi họ đang
đánh cá - được coi là trên vùng lãnh hải Việt Nam, mà loanh quanh một thời gian
các cơ quan Việt Nam vẫn chỉ đi xác định tọa độ mà thôi, không có một động thái
kiên quyết nào cả.
Họ
chỉ biết khuyên dân là cứ mưu sinh, bám biển đi, nhưng cuối cùng không ai bảo
vệ họ. Chính những người có trách nhiệm bên Kiểm ngư cũng đã trả lời là « chúng
tôi không đủ lực lượng để theo dân ». Nếu không phải là Kiểm ngư theo dân thì
lực lượng Hải quân của Việt Nam
ở đâu ? Bộ Quốc phòng cũng im tiếng. Và cứ diễn ra tình trạng tái đi tái lại là
ngư dân Việt Nam
bị Trung Cộng bắt giữ.
Nếu
Trung Cộng bắt mà không thả thì sẽ như thế nào ? Đó là điều mà Việt Nam phải tính
tới ! Và đó sẽ là những hành động khiêu khích của Trung Cộng trong tương lai –
tôi cho là tương lai gần, đối với Việt Nam . Họ có thể bắt người làm con
tin để gây áp lực, đổi chác lấy những việc khác.
RFI : Xin
chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon ,
đã nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay.
Thụy
My
12
hours ago
Giàn
khoan HD 981 của Trung Quốc hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa Việt Nam là "Hàng không mẫu hạm dầu mỏ" phục vụ cho
toan tính hiện thực hóa đường lưỡi bò cũng như chiến lược ...
May
05, 2014
Giàn
khoan HD 981 của Trung Quốc hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa Việt Nam là "Hàng không mẫu hạm dầu mỏ" phục vụ cho
toan tính hiện thực hóa đường lưỡi bò cũng như chiến lược ...
Jul
11, 2014
Tối
qua, Thượng Viện Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua Nghị Quyết S. Res. 412, yêu cầu
Trung Cộng rút giàn khoan HD-981 cùng với lực lượng hải quân ra khỏi vùng biển
đang hoạt động và ngay lập tức trở về nguyên trạng ...
May
09, 2014
HD
981 đã được chính thức đưa vào hoạt động vào ngày 09/05/2012 khi tiến hành
khoan trên biển lần đầu tiên tại một vị trí trên Biển Đông, cách Hong Kong 320
km. Ngoài việc phát triển, trang bị kỷ thuật hiện đại, CNOOC ...
WOW...ĐẾ QUỐC MỸ KINH THẾ NHỈ...
ReplyDeleteKhông kinh sao được khi cái tên trùm tư bản ấy hắt hơi một cái, qua bản Nghị Quyết biển Đông thì ông anh nhớn vĩ đại của chúng ta, CHNH TH teo cha nó dế lại và vội vàng rút ngay em 981 không kèn không trống về...Lý do là tránh...bão.
Sao lạ thế nhỉ? Đại ca 4 tốt của chúng ta vốn là vô địch thế giới từ xưa tới nay, lại đang Trỗi Dậy Không Hòa Bình, sắp tiến tới Số Một Thế Giới, đưa binh hùng tướng mạnh ra làm mình mẩy để độc chiếm biển Đông, làm thế giới kinh sợ...
Anh nhớn ấy lại chơi chiêu Triệt Quyền Đạo Giàn khoan 981 khiến cho các bác VN nhà ta sợ mất dế...CP thì éo dám kiện, QH thì éo dám ra Nghị Quyết, còn đội quân tiên phong thì lặn không sủi tăm, đội quân anh Chiến thì không thấy Chiến, dù bằng mồm...May có anh Giao thì hăng tiết vịt hơn, có "lườm" cho kẻ thù một phát đến rách mặt...Thêm nữa là đẩy các em CS Biển ra chiến để rồi Chiến để Chạy, và xúi các em ngư dân ra bám biển quê hương để cảm tử, để Born to Die....Thế là hết thành tích 2 tháng rưỡi chống Tàu cộng của các bác nhà ta...Và kết quả là Tàu Cộng éo sợ, vưỡn bố láo như cũ...
Ấy thế mà khi QH Hoa Kỳ ra nghị quyết thay QH VN, yêu cầu trả nguyên trạng trước ngày 1/5/2014, tức là yêu cầu Tàu Cộng rút em 981, thì sau vài ngày cà cuống, cu dế lộn xộn CHND TH tuyên bố rút giàn khoan để....tránh bão. Cơn bão có tên bão USA...
Hehe...công nhận đế quốc Mỹ kinh thật. Vì cái Quốc Hội HK ra nghị quyết biển Đông đó mới chỉ là những anh Thượng Viện, mà anh Thượng Viện trong QH HK thì éo có quyền bằng anh Hạ Viện. Nghi Quyết của anh Thượng phần lớn không ràng buộc, không áp đặt và cho vui thôi.(ấy vậy mà có bi nhiêu đó QH của ta cũng éo làm được). Trong vụ NQ biển Đông này thì cái QH của Đế Quốc ấy cũng chỉ là để khè Trung Cộng.
Ấy vậy mà ông anh nhớn Trung Cộng mà các bác VN nhà ta định nấp cánh gà thì teo mất cả bộ đồ lòng, vội rút ngay em giàn khoan 981 khỏi biển VN nhanh như bị cướp. Thế mới thấy câu nói ni của rân rang hồ là có lý :"Khè được thiên hạ là bố thiên hạ rồi"
Hehe....Đế quốc Mỹ muôn năm !
Mai Tú Ân