Trong
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, có lẽ không có
giai đoạn nào chịu nhiều bất hạnh như giai đoạn từ 1954 đến 1975 ở miền Nam.
Theo nhà văn Võ Phiến, đó là nền văn học được đánh dấu bằng hai cuộc di cư:
một, cuộc di cư của gần một triệu người từ Bắc vào Nam; và hai, cuộc vượt biên
ồ ạt của cả triệu người hoặc trên đường bộ, băng qua Campuchia hoặc trên biển
cả với cả mấy trăm ngàn người bị chết hoặc do hải tặc hoặc do bị đắm thuyền.
Chưa
hết. Giữa hai cuộc di cư khổng lồ ấy là một cuộc chiến tranh kéo dài, hầu như
triền miên, giữa hai miền Nam và Bắc. Cũng là chiến tranh, nhưng cuộc chiến
tranh chống Pháp trước đó, dù sao, cũng nhiều màu sắc anh hùng ca hơn: Đó là
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Bao nhiêu oán thù đều dồn, chủ yếu, về phía
những người ngoại chủng. Còn chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc thì
khác.
Dân chúng miền Bắc có thể nghĩ đó là cuộc chiến chống ngoại xâm với mục
tiêu chính là Mỹ. Nhưng với dân chúng miền Nam thì đó chỉ là một cuộc nội chiến
giữa hai anh em một nhà. Tâm trạng của họ, khi tham gia hoặc khi chứng kiến
cuộc chiến ấy khác hẳn ở miền Bắc. Khác ở những thao thức và day dứt
trước cảnh huynh đệ tương tàn. Giới cầm bút không thể thoát khỏi tâm trạng ấy.
Vẫn
chưa hết. Bi kịch thực sự của văn học miền Nam thời 1954-75 chủ yếu là giai
đoạn sau 1975.
Hầu
hết các cuốn sử hoặc hồi ký về giai đoạn hậu 1975 ở miền Nam đều tập trung chủ
yếu vào chính sách lùa các sĩ quan và công chức thuộc chính quyền cũ vào các
trại học tập cải tạo, chính sách đánh tư sản mại bản, chính sách ép dân đi kinh
tế mới, chính sách dùng hộ khẩu và sổ lương thực để kiểm soát dân chúng, v.v…
Nhiều người quên đi một đối tượng mà chính quyền mới sau năm 1975 rất quan tâm,
thậm chí, có thể nói, một trong những điều họ quan tâm nhất: văn học nghệ
thuật, đặc biệt là văn học.
Trước
khi ra lệnh đóng cửa các công ty xí nghiệp tư nhân, chính phủ đã ra lệnh đóng
cửa toàn bộ các nhà xuất bản và các nhà sách cũng như quốc hữu hoá hầu như ngay
tức khắc các nhà in. Trước khi ra lệnh đổi tiền, chính quyền đã ra lệnh tịch
thu toàn bộ sách báo cũ. Cùng lúc với việc bắt bớ các sĩ quan và công chức
trung và cao cấp của chính quyền cũ, chính quyền mới tìm bắt hầu hết những cây
bút ít nhiều dính líu đến chính trị còn lại trong nước. Trong trại cải tạo, chỉ
có giới cầm bút là bị giam giữ lâu nhất, ngang ngửa với các sĩ quan cấp tướng:
trên dưới 10 năm.
Không
những chỉ có tác giả bị bắt, ngay cả các tác phẩm của họ cũng bị “bắt”. Chiếm
Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ hơn 3 tháng sau, Bộ Thông tin Văn hoá đã
ra chỉ thị cấm lưu hành các tác phẩm bị xem là phản động hay đồi truỵ. Một số
chỉ thị có nội dung tương tự lại được lặp lại với những tên sách cụ thể hơn
trong các năm sau đó. Trong số những tác giả bị cấm toàn bộ, có những người ít
nhiều viết về chính trị hoặc chiến tranh như Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo,
Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Chu Tử, Hồ Hữu Tường, Nguyên Sa, Nhã Ca, Phan
Nhật Nam, Thế Uyên, v.v… Đã đành.
Ngay cả những người hầu như chỉ viết thơ tình
như Đinh Hùng, Hoàng Hương Trang hay truyện tình như Tuý Hồng, Nguyễn Thị
Hoàng, v.v… cũng bị cấm. Cấm, dưới tên tác giả, dường như sợ chưa đủ rõ ràng,
người ta còn soạn ra một danh sách dài loằng ngoằng gồm tên tác phẩm của từng
người.
Bắt
tác giả và cấm tác phẩm. Cũng chưa đủ. Người ta còn tổ chức các cuộc hội nghị
để vu khống, xuyên tạc và bôi nhọ văn học miền Nam . Ngoài ra, người ta còn viết
bài đăng trên các tạp chí cũng như xuất bản thành sách để tiếp tục công việc vu
khống, xuyên tạc và bôi nhọ ấy. Nội dung của chiến dịch vu khống, xuyên tạc và
bôi nhọ ấy khá giống nhau; giới cầm bút tại miền Nam nếu không ăn tiền của Mỹ
thì cũng tuân theo các chỉ thị của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà dùng ngòi bút
của họ như một vũ khí chống cộng. Nếu không chống cộng thì cũng làm sa đoạ con
người bằng thứ văn chương đồi truỵ nhầy nhụa mùi xác thịt. Ngay cả với những
tác giả hoàn toàn không dính líu gì đến chính trị, không viết về tình dục, chỉ
viết về tình yêu một cách đầy thơ mộng của tuổi học trò cũng bị vu cho cái tội
tâm lý chiến: ru ngủ tuổi trẻ, để không ai còn quan tâm đến đất nước cả. Như
vậy, viết về chính trị: có tội; không viết về chính trị: cũng có tội. Với lối
quy chụp như thế, hầu như không có ai trong giới cầm bút miền Nam thời
1954-1975 có thể được xem là có lý lịch sạch cả.
Nếu
việc bắt bớ và cầm tù các tác giả miền Nam là một chính sách trả thù đối với
những người hoặc chống đối hoặc không theo cộng sản trong thời chiến tranh,
việc tịch thu và thiêu huỷ sách báo miền Nam là một nỗ lực ngăn chận ảnh hưởng
của chúng để trong đầu óc dân chúng không có gì ngoài thứ văn học họ gọi là chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong đó, chỉ có hai màu: hồng cho cách mạng
và đen cho các lực lượng phản cách mạng. Riêng việc vu khống, xuyên tạc và bôi
nhọ được thể hiện trong các cuộc hội nghị cũng như trên sách báo lại nhắm chủ
yếu vào người đọc, nhằm tẩy não người đọc để mọi người xem văn học miền Nam
không có gì khác ngoài tính chất đồi truỵ và phản quốc.
Trong
ba mục tiêu ấy, có lẽ chỉ có mục tiêu trả thù nhắm vào giới cầm bút miền Nam của chính
quyền mới là thành công. Thành công ở số người cầm bút bị chết trong nhà tù
hoặc ngay sau khi rời khỏi nhà tù: Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh
Côn, Nguyễn Hoạt và Dương Hùng Cường. Thành công ở chỗ giam thật lâu, thật lâu,
đến trên 10 năm, một số những người viết văn và làm thơ như Trần Dạ Từ, Tô Thuỳ
Yên và Phan Nhật Nam. Còn mục tiêu thứ hai, tiêu huỷ các tác phẩm văn học của
miền Nam, có lẽ họ chỉ thành công có mức độ nhờ hai yếu tố: Một là dân chúng,
vì yêu mến nền văn học ấy, cố tình cách giấu giếm hoặc mua bán lén lút với
nhau; và hai là nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại tìm cách sưu tập và tái
bản khá nhiều, ít nhất là những tác phẩm ăn khách nhất.
Riêng
mục tiêu thứ ba, nhằm nhồi sọ dân chúng, tôi ngờ là họ không thành công mấy.
Tôi không tin là những người từng sống ở miền Nam có thể tin vào các luận điệu
tuyên truyền rẻ tiền của chính phủ. Tôi tin điều ngược lại: chính phủ càng lên
án văn học miền Nam
một cách ầm ĩ bao nhiêu, càng lôi kéo sự chú ý của dân chúng vào nền văn học ấy
bấy nhiêu. Tôi biết có nhiều người, từ miền Bắc vào Nam
sau năm 1975, cố tìm kiếm các tác phẩm văn học miền Nam để đọc. Nhà văn Dương Thu Hương
có lần kể, sau năm 1975, điều khiến bà ngạc nhiên và, sau đó, làm thay đổi hẳn
cách suy nghĩ về chính trị của bà chính là các tác phẩm văn học, cả sáng tác
lẫn dịch thuật, mà bà được đọc tại Sài Gòn khi đi thăm gia đình.
Trong
các lần về thăm Việt Nam trước đây, tôi gặp nhiều người cầm bút ở miền Bắc.
Trong đó có khá nhiều người bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với một số cây bút miền Nam
thuở trước, đặc biệt là Thanh Tâm Tuyền và Bùi Giáng, về thơ; Phạm Công Thiện
về triết học, Võ Phiến về tuỳ bút, và Dương Nghiễm Mậu về tiểu thuyết. Tuy
nhiên, sự ngưỡng mộ của họ hầu như chỉ được bày tỏ trong các cuộc chuyện trò
quanh bàn nhậu. Trừ Bùi Giáng, hầu như không có ai được nghiên cứu một cách
thấu đáo và công bình trong bất cứ một công trình phê bình nào cả.
Nói
một cách tóm tắt, nền văn học miền Nam giai đoạn 1954-75, cho đến nay,
ít nhất với độc giả trong nước, vẫn là một nền văn học bất hạnh: sau khi bị
tịch thu và bôi nhọ, nó tiếp tục bị chôn vùi vào quên lãng.
Do
đó, tôi tin cuộc hội thảo về nền văn học ấy do hai tờ nhật báo Người Việt và
Việt Báo cùng với hai tờ báo văn học mạng Tiền Vệ và Da Màu được tổ chức tại
California vào tháng 12 năm nay là một điều cần thiết.
Thật
ra, nó cũng khá muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
THÔNG
BÁO: HỘI THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM
1954-1975
Trong
hai mươi năm, từ 1954 đến 1975, văn học Miền Nam đã đạt được nhiều thành tựu
lớn không những trong lãnh vực sáng tác mà còn trong các lãnh vực dịch thuật,
phê bình, lý luận và nghiên cứu. Tiếc, sau khi chiến tranh kết thúc, những
người cầm bút nếu không bị bắt bớ thì cũng bị cấm hoạt động, sách báo nếu không
bị tiêu hủy thì cũng bị cấm lưu hành, các thành tựu nếu không bị xuyên tạc và
bôi nhọ thì cũng bị vùi vào quên lãng. Một số cây bút ở hải ngoại đã tìm cách
để phục hồi nền văn học ấy nhưng tất cả đều là những nỗ lực cá nhân. Một cuộc
hội thảo về nền văn học ấy, do đó, là một điều vô cùng cần thiết.
Không
những cần thiết, nó còn khẩn thiết. Hiện nay, tất cả những cây bút tài hoa và
có nhiều đóng góp nhất vào nền văn học Miền Nam trong giai đoạn 1954-75, nếu
còn sống, đều đã luống tuổi. Thời điểm này hầu như là cơ hội cuối cùng để nhiều
người trong họ có thể lên tiếng về nền văn học do chính họ góp phần xây dựng.
Nhận
thức sự cần thiết và khẩn thiết ấy, hai nhật báo Người Việt và Việt Báo cùng
với hai tờ báo mạng về văn học Tiền Vệ và Da Màu sẽ cùng nhau tổ chức một cuộc
hội thảo về văn học miền Nam 1954-1975 tại Little Saigon, California, Hoa Kỳ
trong hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 2014.
Cuộc
hội thảo sẽ nhắm vào các mục tiêu chính:
Cố
gắng nhận diện một số đặc điểm nổi bật nhất trong văn học Miền Nam .
Đánh
giá lại những thành tựu chính của văn học Miền Nam
trong toàn cảnh văn học Việt Nam
nói chung.
Tìm
hiểu, phân tích và đánh giá các chính sách đối với văn học Miền Nam của chính quyền Việt Nam sau năm
1975.
Tìm
hiểu, phân tích và đánh giá các nỗ lực duy trì và phục hồi văn học Miền Nam của các tác
giả hải ngoại.
Tưởng
niệm một số cây bút tài năng đã qua đời (có người qua đời trong lao tù hoặc
ngay sau khi ra khỏi trại tù).
Nhắm
đến các mục tiêu trên, đề tài hội thảo sẽ bao gồm một số khía cạnh chính:
Sinh
hoạt văn học Miền Nam (điều
kiện sáng tác, quan hệ giữa văn học và chính trị, giữa Việt Nam và thế
giới, v.v…)
Phân
tích một số thành tựu, đặc điểm và hiện tượng nổi bật nhất (kể cả hiện tượng
các cây bút nữ hoặc các cây bút miền Nam cũng như các cây bút trong quân đội;
các tạp chí văn học & các giải thưởng) của văn học Miền Nam.
Nhìn
lại văn học Miền Nam trong
toàn cảnh văn học Việt Nam
hiện đại
Tìm
hiểu các chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam
sau 1975 đối với văn học Miền Nam
(tác giả & tác phẩm)
Tìm
hiểu các nỗ lực cứu vãn và phục hồi các tác phẩm văn học Miền Nam ở hải ngoại
sau 1975.
Muốn
biết thêm chi tiết, xin liên lạc: Nguyễn Hưng Quốc tuan.nguyen@vu.edu.au, Đinh
Quang Anh Thái dinh.thai@nguoi-viet.com, Hoàng Ngọc-Tuấn hoangngoctuan@optusnet.com.au,
và Đặng Thơ Thơ dangthotho@aol.com.
Về văn học miền Nam 1954-1975
Cuối bài trước, tôi có viết: Một cuộc hội
thảo về văn học miền Nam 1954-75 sẽ được tổ chức tại California vào
tháng 12 năm nay khá muộn màng nhưng, dù sao, cũng hơn là không có gì cả.
Ý niệm về sự muộn màng ấy, ở tôi, nổi rõ nhất là vào tháng 7 năm
2013, khi tôi sang California dự cuộc hội thảo về Tự Lực văn đoàn do nhật báo
Người Việt tổ chức. Lần ấy, trong các cây bút nổi tiếng ở miền Nam trước đây,
chỉ có Doãn Quốc Sỹ tham dự. Tuổi cao, sức khoẻ yếu, bước từng bước hơi chút
lẩy bẩy lên khán đài, Doãn Quốc Sỹ vừa đọc vừa nói về nhà thơ Tú Mỡ, nhạc phụ
của ông. Giọng ông vẫn sang sảng, đôi lúc dí dỏm, như một nhà giáo giàu kinh
nghiệm. Nhưng sau đó, tôi biết được, hầu như tất cả con cháu ông ngồi nghiêm
trang phía dưới đều… nín thở. Họ sợ ông quên giữa chừng. Họ sợ ông nói lạc đề.
Họ sợ đủ thứ. Lý do của cái sợ ấy là hầu như ai cũng biết ông đang bị bệnh già,
có lúc nhớ có lúc quên. Lãng đãng.
Ngồi nhìn Doãn Quốc Sỹ và nghe con cháu và bạn bè ông nói về ông
như thế, tôi nghĩ đến những người vắng mặt trong hai ngày hội thảo. Như Nguyễn
Mộng Giác, mới mất chưa đầy một năm trước đó. Như Nguyễn Xuân Hoàng, ở San
Jose, muốn tham dự nhưng không thể bay về dự được. Vì bệnh. Và đặc biệt, Võ Phiến,
người đáng lẽ không thể thiếu. Không phải vì Võ Phiến được nhiều người xem như
một “tiên chỉ” của làng văn Việt Nam ở hải ngoại hoặc ít nhất ở California mà
còn, chủ yếu còn, vì ông là một trong những người viết hay nhất về Nhất Linh
giai đoạn sau năm 1954. Vậy mà ông lại không thể dự được. Lý do: sức khoẻ.
Nhớ, tôi gặp Võ Phiến lần đầu tiên là vào đầu năm 1989, khi tôi
từ Pháp sang Mỹ tham dự một cuộc hội nghị về văn học Việt Nam ở Chicago. Lúc
ấy, anh Nguyễn Mộng Giác rủ về California chơi. Con gái anh Giác ra phi trường
đón. Trên đường về nhà, anh Giác đề nghị ghé thăm Võ Phiến. Thời gian ấy Võ
Phiến còn đi làm, dáng dấp còn rất nhanh nhẹn. Suốt mấy tiếng đồng hồ, ông nói
thao thao về chuyện văn chương nghệ thuật và về những người ông quen biết từ thời
tiền chiến, như Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Chế Lan Viên và Lam Giang. Nhưng đến
năm 2007, khi tôi quay lại California, thấy ông đã có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Mệt,
nhưng tâm trí ông vẫn còn tỉnh táo. Trong cuộc thảo về văn học Việt Nam ở hải
ngoại được tổ chức tại toà soạn Việt Báo và đặc biệt, trong buổi ra mắt cuốn
“Tuyển tập Võ Phiến” tại toà soạn Người Việt một ngày sau đó, ông vẫn phát biểu
một cách mạch lạc, sắc sảo và duyên dáng. Đó hầu như là hai lần cuối cùng ông
xuất hiện trước đám đông với tư cách một diễn giả. Những năm sau, mỗi lần gặp
lại ông, tôi đều thấy ông yếu hơn một chút. Mang mặc cảm nặng tai và hay quên,
ông co rút lại, né tránh hẳn các đám đông. Giữa bạn bè thân, thật thân,
ông thường lim dim im lặng, lâu lâu khẽ cười và lâu lâu than thở là mình hoàn
toàn vô dụng rồi. Những lúc ấy, nhìn ông, tôi thấy thương vô cùng.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, trẻ hơn Võ Phiến gần 20 tuổi, cũng
thay đổi sau mỗi lần gặp. Năm 2007, anh còn là một nhà văn trung niên tràn đầy
sức sống, nhưng năm 2007, anh đã có dấu hiệu mệt mỏi. Những năm sau đó, lần gặp
nào anh cũng than buồn và than mệt. Tháng 7 năm 2012, tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn đi
Mỹ, ghé San Jose, điện thoại rủ anh đi uống cà phê. Thoạt đầu, anh từ chối vì
mới bị té giập xuống đất, mặt mũi còn sưng vù, rất ngại ra đường. Nhưng sau đó,
anh vẫn đến. Một bên má anh còn bầm tím. Anh buồn thấy rõ. Anh nói về cái
chết và về cái hư không của cuộc đời. Chúng tôi an ủi, thậm chí, lái câu chuyện
sang phía hài hước để anh quên. Thì miệng anh vẫn cười, nhưng ánh mắt của anh
thì vẫn hiu hắt.
Cũng ở San Jose, ngoài Nguyễn Xuân Hoàng, còn có hai người cầm
bút nổi tiếng khác: Hoàng Ngọc Biên và Huỳnh Phan Anh. Huỳnh Phan Anh thì tôi
chỉ gặp một lần (không kể một lần khác, ở Việt Nam, trước đó), thấy có vẻ yếu,
dáng đi đã liêu xiêu; lần sau, gọi điện thoại trò chuyện, anh than là yếu lắm
rồi, chả muốn đi đâu ra khỏi nhà. Với anh Hoàng Ngọc Biên thì thân hơn. Những
lần đầu, anh còn rất sôi nổi bàn chuyện thơ văn, nhưng sau, bị bệnh, phải nằm
bệnh viện khá lâu, anh cũng yếu hẳn. Chúng tôi đến thăm, anh vẫn mừng rỡ nhưng
trong giọng nói không còn vẻ hào hứng như trước.
Cứ thế, kể từ năm 2007 về sau, hầu như năm nào tôi cũng đi Mỹ,
và lần nào cũng thấy số bạn bè văn nghệ lớn tuổi cứ thưa thớt dần. Dần dần.
Những người còn lại thì cũng yếu dần, yếu dần.
Tôi tưởng tượng: nếu cuộc hội thảo về văn học miền Nam được tổ
chức muộn thêm vài năm nữa, con số những người đáng lẽ phải tham dự chắc là sẽ
ít hẳn đi. Những nhân chứng, hơn nữa, những tác tố tạo thành nền văn học ấy sẽ
vắng dần. Vắng dần.
Lúc ấy, tổ chức hội nghị, chắc là buồn lắm.
Jul
18, 2014
Mặc
dù không bị chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thuyết phục, nhưng giới cầm
bút ở Tây phương vẫn không thoát khỏi ám ảnh về nó, do đó, mối quan hệ giữa văn
học và chính trị trở thành một đề tài được nhiều người ...
Jul
16, 2014
Từ
năm 2001, khi Tiền Vệ ra đời và trở thành một trong vài tờ báo mạng về văn học
được đọc nhiều nhất, họ - cùng với nhiều người khác - đều chỉ viết bằng tiếng
Việt. Qua tạp chí giấy cũng như báo mạng, họ có được một ...
May
06, 2014
Hơn
nữa, càng ngày tôi càng khám phá, đúng hơn, cảm nhận sâu hơn, một điều: Không
có sự khác biệt quá lớn giữa việc bình luận chính trị và phê bình văn học. Ít
nhất, với riêng tôi, trong cả hai trường hợp, tôi đều có một ...
Jul
20, 2014
Trở
về Việt Nam
sau nhiều năm học tập và làm việc ở nước ngoài, Tiến sĩ Giáp Văn Dương (*) đã
gần như ngay lập tức tạo “sóng dư luận” bằng sự kiện khai trương GIAPSCHOOL –
một loại hình giáo dục chưa từng có ở Việt ...
Jul
07, 2014
Gần
đây nhất, nổi bật nhất là vụ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tước bằng Thạc sĩ
của nhà văn Nhã Thuyên Đỗ thị Thoan chỉ vì, trong luận văn ấy, Nhã Thuyên viết
về nhóm Mở Miệng, một nhóm văn học ngoài luồng của ...
Sep
20, 2013
Sau
đây, chúng tôi xin mời quý vị bước vào thế giới của ngôn ngữ Nói Lái qua các
câu đố, câu hò, câu đối, giai thoại trong dân gian và cả những bài thơ mang
tính cách Văn học Nghệ thuật hoặc đã có từ lâu trong nền Văn ...
Jul
29, 2011
Một
người đàn ông Việt Nam tới Australia tị nạn hơn 30 năm trước đã được tuyên
dương tại lễ trao giải thưởng văn học danh giá nhất Australia . Anh Đỗ, tác giả văn học
kiêm diễn viên hài kịch, đã đoạt ba giải thưởng cho ...
Jan
26, 2013
“Họ
[ban giám khảo] chỉ đủ tầm để đọc loại văn học ở tầm thấp thôi, chứ còn văn học
đỉnh cao thì nó còn ở nhiều trường phái khác nhau thì họ không đủ tầm để đọc,”
nhà văn Y Ban nhận xét. “Và vì không có tầm, không có tài ...
Sep
25, 2012
Chúng
tôi hy vọng bộ sưu tập sẽ khuyến khích các nghiên cứu mới về Tự Lực văn đoàn và
đóng góp của họ không những chỉ cho văn hóa và văn học mà còn đặc biệt là trong
xã hội và chính trị. T.S. Martina Thucnhi Nguyễn.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.