Ông
William Hague là Ngoại trưởng Anh đầu tiên thăm Việt Nam sau 17 năm
Tin
ông William Hague rời chức Bộ trưởng Ngoại giao Anh không làm tôi ngạc
nhiên.
Chính
phủ của Thủ tướng David Cameron rất cần một cuộc cải tổ nội các rõ
nét hơn lần ‘cải tổ mini’ lần trước, nhằm làm mới nghị trình chính
trị một năm trước bầu cử.
Nhưng
tạm để sang một bên chuyện chính trường Anh thì tin ông Hague sang nắm
vị trí lãnh đạo Hạ viện (Leader of the Commons) cũng là dịp ghi nhận
các nỗ lực của ông cho nước Anh ở mảng ngoại giao.
Ông
Hague không chỉ là một chính khách mà còn là một học giả.
Điều
đó cũng cho thấy tham vọng chính trị của ông Hague, người cũng lên
làm lãnh đạo đảng Bảo Thủ Anh năm 34 tuổi.
Nếu như William Pitt là nhân vật chính trị góp phần tạo ra nước Anh mới giữa thời kỳ biến động (Cách mạng Pháp, nước Mỹ giành độc lập), hẳn ông Hague cũng muốn tạo ra một chính sách mới cho Anh Quốc thời Toàn cầu hóa.
Và
điều thú vị là một trong những ý tưởng lớn của ông về ngoại giao
Anh được bộc lộ trong chuyến thăm Việt Nam hai năm trước.
Luôn
rất thiện chí
Tôi
cũng theo dõi quan hệ hai nước từ góc độ một người làm báo và có
thể chia sẻ một vài nhận xét riêng.
Điều
đầu tiên là ông William Hague rất ‘ngoại giao’ vì luôn giữ được nụ
cười thân thiện nhưng phát ngôn cũng rất kín kẽ, không nói gì ‘phá
rào’.
Tôi chứng kiến điều đó khi dự lễ ông thay mặt chính phủ Anh ký với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Gia Khiêm tại Whitehall, văn bản Đối tác Chiến lược Anh – Việt hồi tháng 9/2010.
Trả
lời câu hỏi của tôi về ý nghĩa của lễ ký kết trong lúc ống kính
camera do đồng nghiệp Chris Marshall quay, ông mỉm cười rất rộng:
“Đây
là sự kiện quan trọng cho cả hai nước và hai bên sẽ từ đây thúc đẩy
việc thực hiện thỏa thuận này".
Thật khó nói đấy là cách ông William Hague hy vọng hay nhắn nhủ phía Việt Nam thực hiện mọi chi tiết của thỏa thuận này, gồm cả rất nhiều mục chính giới Việt Nam coi là ‘tế nhị’ như nhân quyền, cải tổ tư pháp, tự do báo chí?
Nhưng
cảm giác của tôi là ông William Hague tỏ ra rất ‘ngoại giao’ với cả
BBC và phái đoàn Việt Nam có mặt.
Ông
Hague thể hiện tư duy chính trị qua cuốn sách về William Pitt Trẻ
Tuổi, người làm thủ tướng Anh năm 24 tuổi hồi thế kỷ 18
Ở
Anh, dù là nhân vật có uy tín lớn trong đảng Bảo Thủ và gần như là
nhân vật số ba trong cả hệ thống chính trị, sau Thủ tướng David
Cameron, Bộ trưởng Tài Chính George Osborne, ông cũng không ồn ào mà
có vẻ thiên về suy tư, định hướng chiến lược cho ngoại giao Anh.
Thậm
chí để biết được ông nghĩ gì về vai trò của Anh Quốc trên thế giới,
báo Anh phải tìm đến phát biểu của ông ở Hà Nội trong chuyến thăm
hồi tháng 5/2012.
The Economist viết rằng khi trả lời các bạn sinh viên Việt Nam, ông Hague đã bộc lộ rõ viễn kiến ngoại giao của mình.
Sức
mạnh của Anh Quốc theo ông, không còn đến từ nỗi niềm lưu luyến một
thời đế quốc, mà từ sự ý thức được vai trò thực tế của Anh.
Những
gì Anh Quốc có thể ‘trình làng’ ra quốc tế thời nay là các trường
đại học, là hệ thống hành chính công, và các ngành dịch vụ, từ
pháp luật đến tài chính, ngân hàng.
Sức
mạnh quân sự của Anh cũng được ông nhắc đến nhưng hai nhóm giá trị
bao trùm cho đường lối ngoại giao mang phong cách William Hague là tình
bạn (friendliness), cộng với quyền lợi riêng (self-interest), theo The
Economist.
Nhưng
đây cũng không phải vì Anh Quốc ‘sợ làm phiền’ các chính trị gia ở
Hà Nội, mà ‘quyền lực mềm’, thuyết phục nhiều hơn can thiệp là cách
làm chung của châu Âu ngày nay với thế giới bên ngoài.
Điều
này là khó hiểu cho nhiều bộ phận dân cư châu Á, nơi các cường quốc
đang lên đều muốn ‘diễu võ dương oai’, khoe ra nào tàu ngầm, chiến
hạm, nào tên lửa đạn đạo, nào vũ khí tấn công mạng.
Vì
ở Anh, đến hợp tác của ngành an ninh chống khủng bố cũng chỉ được
coi là một thứ dịch vụ, hay ‘công nghệ’, gọi là ‘counter-terrorism
know-how’, nghe hệt như các thứ ‘know-how’ để sản xuất ô-tô hay chế
biến điện thoại di động.
Sau
hai cuộc chiến hủy diệt và cuộc đối đầu tàn hại thời Chiến tranh
Lạnh, người châu Âu ý thức rất cao về cái giá của chiến tranh.
Năm nay BBC chúng tôi cũng liên tục có chương trình kỷ niệm 100 năm Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, khi cũng là lần thứ nhất vũ khí hóa học được sử dụng tràn lan, dội xuống hàng vạn binh lính ở các chiến hào châu Âu 1914 -1918.
Cũng từ sau cuộc can thiệp vào Iraq, rồi vào Afghanistan, tâm lý chủ hòa luôn thắng thế trong mọi cuộc thảo luận ở London, Paris hay Berlin.
Ngôn
ngữ và sự hiểu lầm
William
Hague đã thúc đẩy mạnh 'xuất khẩu giáo dục' của Anh sang Việt Nam
Nhưng
cũng cần hỏi mối bang giao Anh – Việt mà ông Hague có công khởi động –
ông là Ngoại trưởng Anh đầu tiên quay trở lại thăm Việt Nam sau 17 năm –
có tương lai ra sao?
Vẫn trang The Economist bình luận về chuyến thăm đầy thiện chí của ông Hague sang Hà Nội năm 2012 cũng trích lời một chuyên gia ngân hàng Singapore bình luận rằng “một số sinh viên Việt Nam từ Anh trở về với tấm bằng tốt, nhưng trình độ tiếng Anh rất thô sơ” (rudimentary).
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến này.
Nền giáo dục Anh nổi tiếng là có chất lượng ở cấp đại học, chứ không phải tiểu học và trung học, trừ các trường công dạng grammar school mà ông William Hague là một sản phẩm.
Nhưng
khi vào đại học ở Anh, sinh viên Việt Nam phần nhiều đã định hình
cách nghĩ, các thói quen cả tốt lẫn xấu qua thời kỳ học tại Việt
Nam.
Dùng
thói quen ‘tốt’ như chịu học gạo, chịu luyện thi để chạy nhanh qua
một năm học MA hay ba năm Bachelor, họ quả là có tấm bằng giá trị.
Nhưng
trong một thời gian ngắn như thế chỉ cắm đầu vào học và thi, khả
năng mở rộng giao tiếp, giao lưu và tiếp thu văn hóa, lối sống, nhất
là lối nghĩ Ăng-lê không còn bao nhiêu.
Nhưng
nếu người Việt học ở Anh về mà chỉ có khả năng dùng tiếng Anh rất
hạn chế thì còn nói gì đến việc áp dụng các kiến thức luật pháp,
tài chính học được.
Ngoài
ra, cũng dễ thấy là đa số các bạn sinh viên sang đây du học thuộc
tầng lớn trên, có tiền của, quyền lực trong xã hội Việt Nam hiện
nay.
Quyền
lợi của họ vì thế gắn liền với mô hình chính trị – kinh tế hiện
nay.
Nên
sẽ là phi thực tế nếu mong chờ rằng ai về cũng sẽ áp dụng các giá
trị pháp quyền và tự do tư tưởng ở Anh vào xã hội Việt Nam để thay
đổi chính hệ thống nuôi dưỡng họ ở vị trí đầy ưu thế.
Bài
toán hội nhập cho Việt Nam thông qua sự thăng tiến về giáo dục bằng
tiếng Anh, nhờ vào sự đầu tư vào gần một vạn sinh viên sang Anh, phải
chăng vẫn đang chờ lời giải?
Bộ
ba quyền lực: George Osborne, David Cameron và William Hague
Về
lĩnh vực giáo dục và xã hội là thế.
Tương
kính và 'fair play'
Còn
về mặt chính quyền, tôi tiếp xúc nhiều với giới ngoại giao Anh Quốc
phụ trách châu Á và chưa hề nghe mọi ai nói một điều gì không thiện
chí về Việt Nam.
Nhìn
chung họ đều cảm thông với quá khứ chiến tranh của người Việt Nam từ
cả hai miền, thuyền nhân Việt cũng như những người miền Bắc có thời
đói khổ hậu chiến.
Họ
cũng đều vui mừng về số sinh viên sang Anh học nhiều, và quan tâm đến
đề tài như biến đổi khí hậu, cải tổ tư pháp mà họ thực lòng muốn
giúp Việt Nam thực hiện.
Chuyện
nhân quyền với Việt Nam mà ông William Hague chủ trương cũng là một đề
tài không nặng nề.
Vì
không dính líu vào Cuộc chiến Việt Nam bên cạnh Hoa Kỳ, Anh Quốc
chẳng có món nợ hay mặc cảm có lỗi gì với Hà Nội cả.
Nhưng London cũng là nơi các làn sóng tỵ nạn châu Âu chạy khỏi hai chế độ phát xít và cộng sản cập bến, là nơi Ân xá Quốc tế đóng trụ sở nên nhân quyền - quyền sống có nhân phẩm, không bị kìm kẹp - là điều hiển nhiên người Anh ủng hộ.
Họ
vận động cho nhân quyền, cho tự do biểu đạt qua báo chí còn vì trọng
sự ‘công bằng’ (fairness), một đặc tính khá Ăng –Lê, có lẽ đến từ
các cuộc chơi thể thao, từ cricket, rugby hay bóng đá, vốn đều từ Anh
mà ra hoặc do Anh đặt luật chơi.
Họ
sẽ chê cuộc chơi xấu do tỷ số bị áp đặt từ trước, hay có cầu thủ
bị thẻ đỏ vô cớ, chứ không phải vì ý thức hệ gì cả.
Cũng
chính vì tinh thần trọng ‘fair play’, sẽ không bao giờ có chuyện Anh
Quốc áp đặt gì lên Việt Nam.
Nhưng
nhìn từ phía Việt Nam thì có lẽ cuộc đối thoại nhân quyền với Anh
hay các vấn đề liên quan đến tự do báo chí không nên bị diễn giải
cứng nhắc, hoặc để mặc cả gì đó về chính trị, điều mà Anh không
muốn, và cũng không có gì để đánh đổi.
Quan
hệ hai nước còn rất mới, và rất nhiều tiềm năng nhưng cũng còn tuỳ
thuộc rất nhiều vào hai chính phủ và những con người cụ thể trong
hai chính quyền và ngoài xã hội.
Với
những người Việt có duyên đến với nước Anh, các cơ hội vẫn còn rất
lớn, chưa khai thác hết.
Để giao lưu Anh - Việt có ý nghĩa hơn, người Việt Nam cần cảm và hiểu thấu đáo hơn một xứ sở tuy là châu Âu nhưng luôn hướng ra Đại Tây Dương, và một nền văn hóa đủ ý nhị để biến làn gió lạnh Biển Bắc thành tính 'coolness' đặc trưng.
Giới
chính khách đến rồi đi nhưng trong cuộc hành trình Anh - Việt hơn 10
năm qua, ông William Hague và tinh thần làm mới, trẻ hóa của ông đã
luôn có mặt đâu đó.
Nguyễn
Giang
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.