Wednesday, July 30, 2014

Đôi gót chân Achilles của chủ quyền

image
Phạm Văn Đồng ký công hàm cách đây 60 năm
Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, cho đến năm 1954 cơ sở pháp lý của Việt Nam có thể mạnh hơn của Trung Cộng, nhưng sau đó thì chủ quyền Việt Nam có một đôi gót chân Achilles.
Một gót là công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng (CHPVĐ).
Gót kia là việc từ 1954 đến 1975 VNDCCH không có tuyên bố hay hành động chủ quyền gì với Hoàng Sa, Trường Sa.
Hai gót chân Achilles này có tính chất pháp lý khác nhau.
Chúng có cùng hệ quả là khả năng là cho đến năm 1975 cơ sở pháp lý của VNDCCH yếu hơn của Trung Cộng, nhưng chúng có thể có hệ quả khác nhau cho Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).

Công hàm Phạm Văn Đồng

image
Trong luật quốc tế, CHPVĐ là một tuyên bố đơn phương, với nghĩa nó không phải là một hiệp ước song phương hay đa phương.
Theo luật quốc tế, không phải tuyên bố đơn phương nào cũng có tính ràng buộc, nhưng nếu trong tuyên bố có thể hiện ý định bị ràng buộc thì tuyên bố đó có thể ràng buộc.
Dựa theo luật tập quán quốc tế và phiên tòa xử tranh chấp Đông Greenland, ông Phạm Văn Đồng, là thủ tướng đứng đầu chính phủ của một quốc gia, sẽ bị cho là đã có thẩm quyền trên bình diện quốc tế để làm cho VNDCCH bị ràng buộc, kể cả về lãnh thổ, không cần có sự phê chuẩn của Quốc hội VNDCCH.
Cũng theo luật quốc tế, tính ràng buộc, có hay không, của tuyên bố đơn phương không dựa vào hình thức của tuyên bố.
Trong phán quyết Đông Greenland, lời nói miệng của người có thẩm quyền còn có thể gây ra sự ràng buộc.
Khác với nguyên tắc estoppel, tuyên bố đơn phương có thể ràng buộc dù bên kia đã không dựa vào nó và bị thiệt hại (tức là yếu tố detrimental reliance).
Như vậy, CHPVĐ, như một tuyên bố đơn phương, có thể nguy hiểm cho VNDCCH hơn cả lập luận estoppel, vì nó có thể ràng buộc ngay cả khi không có điều kiện detrimental reliance mà estoppel đòi hỏi.
Do đó, phản biện bằng lập luận Trung Cộng đã không dựa trên CHPVĐ và bị thiệt hại là cần thiết nhưng không đủ.
Về nội dung, tuy CHPVĐ không nói gì về Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng cũng không bảo lưu gì, trong khi công hàm viết “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố trong đó Trung Cộng mặc nhiên cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của họ.

CHPVĐ có thể hiện ý định bị ràng buộc không?

Trong CHPVĐ, câu “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Cộng” còn có thể (nhưng vẫn khó) được cho là không thể hiện ý định bị ràng buộc.
Nhưng câu “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Cộng trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.” thì khó có thể nói là không thể hiện ý định bị ràng buộc.
Sự ràng buộc đó là về việc gì?

image
Trung Cộng khẳng định chủ quyền bằng việc hạ đặt giàn khoan mới đây
Sẽ khó phản biện rằng CHPVĐ nói về “hải phận của Trung Cộng”, nhưng ngoại trừ lãnh hải 12 hải lý chung quanh Hoàng Sa, Trường Sa.
Như vậy, ít thì VNDCCH có thể bị ràng buộc phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý chung quanh Hoàng Sa, Trường Sa như của Trung Cộng, dù vấn đề chủ quyền đối với các đảo vẫn còn bỏ ngỏ.
Nếu tệ hơn, VNDCCH có thể bị ràng buộc không được tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng. Lưu ý sự ràng buộc này, nếu có, không nhất thiết là Tòa cho rằng CHPVĐ là một sự công nhận chủ quyền Trung Cộng (một điều mà VNDCCH không có thẩm quyền để làm), mà là liên quan đến VNDCCH tự giới hạn sự tự do của mình (một điều mà VNDCCH có thẩm quyền để làm), và điều quan trọng là nó cũng đủ làm cho VNDCCH không thể thắng Trung Cộng trước Tòa.
Như vậy, CHPVĐ có hai hệ quả:
Tòa có thể cho rằng VNDCCH bị ràng buộc bởi một trong hai nghĩa vụ trên.Tòa có thể cho rằng quốc gia nào thừa kế từ VNDCCH sẽ phải kế thừa nghĩa vụ đó.

Không khẳng định chủ quyền

image
Từ 1954 đến 1975 VNDCCH không khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong luật quốc tế, đi đôi với chủ quyền là trách nhiệm thực thi chủ quyền và không cho nước khác làm điều mà họ cho là thực thi chủ quyền trên lãnh thổ của mình.
Sự không khẳng định chủ quyền không phải là công nhận chủ quyền của nước khác, nhưng nếu trong khi nước khác đòi và có hành động chủ quyền mà mình không khẳng định trong một thời gian dài thì có thể dẫn đến việc mất chủ quyền.
Đây là khái niệm acquiescence. Acquiescence nguy hiểm ở chỗ dù không làm gì có giá trị pháp lý, vẫn có thể mất chủ quyền.
Ở đây chúng ta cần hỏi: acquiescence có tính ràng buộc hay không? Tức là nếu đã im lặng và bất động một hay nhiều lần thì sau đó được lên tiếng đòi chủ quyền hay không?
Sự im lặng và bất động không phải là hiệp ước, do đó không có tính ràng buộc của một hiệp ước.
Nó cũng không phải là thể hiện ý muốn bị ràng buộc, do đó không có tính ràng buộc của một tuyên bố đơn phương.

Nhưng nó có gây ra estoppel, cụ thể là estoppel by acquiescence, hay không?

Để có estoppel, một bên phải có một sự bày tỏ quan điểm (representation) bất lợi cho mình, và bên kia phải vì tin vào sự bày tỏ đó nên có hành động gây tổn hại cho họ (detrimental reliance).
Sự im lặng và bất động của một bên có thể bị cho là một sự bày tỏ quan điểm, do đó có thể gây ra estoppel, nếu bên kia có detrimental reliance.

Như vậy, nếu Trung Cộng đã không dựa trên acquiescence của VNDCCH mà có hành động có thiệt hại cho họ thì VNDCCH có thể đổi ý và đòi chủ quyền. (Trên thực tế, về phía Trung Cộng thì họ cũng đã im lặng và bất động khi Nhà Nguyễn thực thi chủ quyền với Hoàng Sa, và khi Pháp tuyên bố chủ quyền với Trường Sa, nhưng sau đó họ đã đổi ý và đòi chủ quyền).
Nhưng dù VNDCCH có được đổi ý, khả năng là tới năm 1975 sự acquiescence đã làm cho vị trí pháp lý của VNDCCH quá yếu để có thể đánh bại được vị trí của Trung Cộng.
Như vậy, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền có hai hệ quả:
VNDCCH khó có thể thắng Trung Cộng.
Nhưng khả năng là sự im lặng và bất động đã không gây ra nghiã vụ có tính ràng buộc mà quốc gia hậu duệ của VNDCCH phải thừa kế.

Làm sao có thể thắng?

image
Nếu so sánh thêm với các phiên tòa xử tranh chấp ngôi đền Preah Vihear giữa Campuchia, và Thái Lan và phiên tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa Singapore và Malaysia dự đoán có xác suất cao nhất là Tòa sẽ xét tổng thể hai gót chân Achilles, và có thể cả những động thái bất lợi khác, của VNDCCH và đi đến kết luận rằng cho đến 1975 VNDCCH đã không cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của mình.
Nếu vậy thì VNDCCH sẽ không còn danh nghĩa chủ quyền gì đối với Hoàng Sa, Trường Sa để cho bất cư quốc gia hậu duệ nào đó thừa kế. Không những thế, CHPVĐ còn có thể đã để lại một nghĩa vụ bất lợi.

Điều này có nghĩa nếu Việt Nam, dưới bất cứ chế độ hay ý thức hệ nào, ở bất cứ thời điểm nào trong tương lai, ra tòa với Trung Cộng về Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam sẽ chỉ thắng nếu có hai điều kiện sau.

Thứ nhất, khi Việt Nam thống nhất năm 1976 thành CHXHCNVN, quốc gia đó đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ một quốc gia nào đó khác với VNDCCH.

Thứ nhì, trong trường hợp Tòa cho rằng VNDCCH đã gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc với Trung Cộng (thí dụ như nghĩa vụ không được tranh chấp chủ quyền với Trung Cộng), Tòa cho rằng bồi thường công bằng của CHXHCNVN cho Trung Cộng không phải là chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.



Dương Danh Huy


Jun 02, 2014
1) Công Hàm Phạm Văn Đồng, 1958. 2) Mật Ước Thành Đô 1990. 3) Hiệp Ước Biên Giới 30 tháng 12 năm 1999 liên quan đến đất liền. 4) Hiệp Ước phân định Vịnh Bắc Bộ 25 tháng 12 năm 2000. 5) Sự việc 2014 tại Biển ...

Jun 03, 2014
Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có … “khôn lâu”. - Ý ông là? image.

May 24, 2014
Viết trên BBC, Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam , cho rằng công hàm “không liên quan gì đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận 2 quần .

May 20, 2014
Công hàm ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng ký năm 1958 để phúc đáp tuyên bố của CHND Trung Hoa hôm 04/9 năm 1958 về hải phận 12 hải lý của nước này. Viết trên BBC, Tiến ...

May 12, 2013
Có tác giả so sánh Công hàm 1958 của VNDCCH với Công hàm 1953 của Johor trong vụ kiện tranh chấp cụm đảo Pedra Branca trước Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) giữa Malaysia và Singapore. Họ đề nghị CHXHCHVN ...

Oct 01, 2012
Công hàm 1958 là một tuyên bố chính trị, như GS Joële Nguyễn đã nói, hay là một tuyên bố đơn phương mà phía tuyên bố có ý muốn ràng buộc với những gì đã tuyên bố và nếu có dịp sẽ thực hiện các lời hứa đó?

Jul 24, 2014
Đến năm 1958, chỉ đạo cho Phạm văn Đồng viết công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý thuộc Trung cộng trong vùng đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam . Từ đó mở ra cửa ngõ để những kẻ kế tiếp ký hiệp thương và ...

Jul 08, 2014
Phải hủy bỏ cái công hàm gian manh này do tính bất hợp pháp; tuyên án nặng nề hai tên "đồng tính... ác là Tàu Cộng và Việt Cộng - những kẻ buôn gian bán lận; và trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho nhân dân Việt Nam .

Jun 13, 2014
Bản tin cho biết những trang sách địa lý đó nằm trong một tập hồ sơ bao gồm một bản đồ khu vực, công hàm năm 1958 của Việt Cộng, và trang bìa của một bản đồ thế giới in vào năm 1972. image. Xinhua, cơ quan ngôn luận ...

Jul 20, 2014
... Minh theo lệnh Nga – Tàu giết hàng chục vạn dân trong cải cách ruộng đất hay việc nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện đảng cộng sản dưới danh nghĩa nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký công hàm công nhận, ...

Jun 11, 2014
Nhưng Liên Hiệp Quốc vẫn còn lưu giữ hồ sơ những công hàm phản đối của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 2 năm 1974. image. Vương Dân còn viết rằng, “Việt Nam đã chính thức công nhận quần đảo Tây Sa (sic) ...

May 20, 2014

CSVN sợ sệt dân chúng khám phá ra Công Hàm Bán Nước ký bởi Phạm Văn Đồng/Hồ Chí Minh mà CSVN đã bịp bợm che dấu dân từ lâu. Ngày nay dân chúng khám phá ra việc bán nước bỉ ổi này của Phạm Văn Đồng và ...


image

Đảng viên không còn tha thiết CNXH
Phương Tây mở rộng chế tài với Nga
Bệnh bạch biến
Công an đòi điều tra Lm Phan Văn Lợi
Và tôi cúi đầu im lặng…
Chuyện Đông và Tây Đức sau khi thống nhất
Người Việt tẩy chay hàng Trung Cộng sau vụ tranh c...
Đảng viên lão thành kêu gọi thoát Trung
Thuế nuôi vịt
Dự án Metro số 1 ở Sài Gòn
Hà Nội gió !!!
Lâu đài biến giấc mơ công chúa thành hiện thực
Việt Nam đã đóng góp những gì cho nhân loại!?
Nghề nghiệp ngày xưa qua hình ảnh
Chiến lược dầu hỏa
Giáo dục VN: Cuộc chơi bảo kê
Toà án VN 'không nhân danh công lý'
Mâm cỗ có cao hơn tiếng chào?
Trung Cộng muốn "Thoát-Mỹ" – Mà không dễ
Tăng "quyền nhục hình” cho công an?
Một thuở học trò
Thưa cô - em cũng muốn tin nhưng không thể!
Có thể đòi được cái đã bán hay chăng?
Bột nhừ hầm xương trong 10 phút
Thiếu tá Hồ Chí Minh
Bê bối 'thịt thối' ở Trung Cộng
Vĩnh biệt Ca sĩ Quỳnh Giao
10 hãng đồ ăn nhanh (fast food)
Hỏa tiễn Đông Phong của TC đe dọa HKMH Mỹ ở Thài B...
Câu chuyện quen thuộc ở nước Nga
Về văn học miền Nam 1954-1975
Michelle Phan đang phải đối mặt với vụ kiện vi phạ...
2014_Ai sẽ diện kiến Barak Obama?
Cơn ác mộng bất bình thường của Vladimir Putin
Ánh sáng cuối đường hầm
Những hình ảnh khiến cả thế giới bàng hoàng về thả...
LHQ thông qua nghị quyết về vụ bắn rơi máy bay MH1...
Chỉ vì có quỷ sống lẫn với người
Việt Nam khó cấm bán bia rượu sau 22 giờ?
Thủ tướng Hà Lan cảnh báo Putin về “cơ hội cuối cù...

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.