Nạn
bè phái và chủ nghĩa tư bản thân hữu trong giáo dục: Cuộc chơi bảo kê
Thành
công tài chính nhờ vị thế độc quyền vững như bàn thạch của EMG trong lĩnh vực giảng
dạy chương trình phổ thông quốc tế tại các trường phổ thông công lập ở
Việt Nam
có thể nói là chưa có tiền lệ. Chưa có tiền lệ vì họ vừa thu học phí cao
(khoảng 150 USD/tháng), giảng dạy ít giờ (6 tiết/tuần), không phải trả phí tổn
về cơ sở vật chất (vì sử dụng cơ sở vật chất của trường công lập), không cần
chi nhiều cho công tác tiếp thị (vì các trường công đã “lùa” học sinh vào học
hộ), lại không sợ bị cạnh tranh vì không có đối thủ nào khác xin được giấy phép
tương tự.
Thế
nhưng điều mà EMG không ngờ tới, cũng không kiểm soát được, là việc Cambridge không còn tin
tưởng ở uy tín của EMG. Rõ ràng là sau nhiều vụ tai tiếng bị báo chí
phanh phui liên quan đến EMG, Cambridge
không thể không cân nhắc việc có nên tiếp tục hợp tác với EMG hay không. Cuối
cùng, Cambridge
cũng quyết định ngừng hợp tác. Đó là vào khoảng đầu năm 2014, khi Cambridge thông báo với EMG và các trường phổ thông rằng
họ sẽ ngưng không cho EMG thực hiện giảng dạy chương trình Cambridge của họ nữa.
Điều
này rõ ràng là một đòn đo ván đối với EMG. Mất tư cách là đối tác triển khai
chương trình của Cambridge, EMG có nguy cơ trở thành một trung tâm tiếng Anh
hoàn toàn bình thường, giống như hàng trăm trung tâm tiếng Anh khác ở Việt Nam.
Đó là chưa kể việc uy tín của EMG (trước đây vốn đã bị công luận chỉ trích
nhiều) đối với phụ huynh và học sinh bị xuống thấp hơn bao giờ hết.
Vấn
đề trở nên thú vị là ngay sau đó, EMG đã quay trở lại một cách “hào hùng” nhờ
có sự hỗ trợ của Sở Giáo dục thành phố Sài Gòn. Lãnh đạo của Sở này đã làm mọi
cách có thể để bênh vực EMG, bao gồm cả những việc tày đình mà hàng loạt báo
chí đã phanh phui như Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Người Lao Động, Thời Báo Kinh tế Sài Gòn, VnExpress, Một Thế Giới, kể cả:
Gửi
công văn cho CIE yêu cầu phải tiếp tục nhận EMG làm đối tác triển khai, nếu
không sẽ không cho CIE triển khai chương trình của họ tại Sài Gòn;
Sau
khi CIE không chịu nhượng bộ trước yêu cầu của Sở Giáo dục thành phố Sài Gòn,
lãnh đạo Sở này đã phối hợp với EMG và nhào nặn ra một chương trình mới gọi là
chương trình “tích hợp” để xin Bộ Giáo dục & Đào tạo cho triển khai.
Loan
tin công khai trên báo chí rằng chương trình “tích hợp” này là sản phẩm của sự
hợp tác với Bộ Giáo dục Anh Quốc và Cơ quan Quản lý và Khảo thí Quốc gia Anh
quốc (STA).
Sau
khi bị chính phủ Anh Quốc (đại diện là Tổng lãnh Sự Vương quốc Anh tại Sài Gòn)
phản bác và khẳng định không có bất cứ sự hợp tác nào liên quan đến chương
trình này, Sở Giáo dục Sài Gòn lại yêu cầu Tổng lãnh sự Vương quốc Anh đính
chính.
Khi
Tổng lãnh sự Vương quốc Anh tuyên bố không có bất cứ lý do gì phải đính chính,
Sở này chữa cháy rằng không phải hợp tác chính thức với STA hay Bộ giáo dục
Anh, mà là có một chuyến thăm quan nước Anh và thăm quan các cơ quan này từ năm
2011 (chuyến đi do EMG tổ chức và tài trợ).
Những
hành động vượt quá xa so với vai trò là một cơ quan chủ quản của Sở Giáo dục
& Đào tạo thành phố Sài Gòn trong vụ việc này cho thấy dấu hiệu “bảo kê”
của Sở đã quá rõ. Thậm chí không còn là bảo kê, mà theo một nghĩa nào đó, trở
thành công cụ, hay tay sai của công ty tư nhân này.
Cho
dù chưa có bất cứ điều tra chính thức nào về quan hệ lợi ích giữa Sở Giáo dục
Sài Gòn, các lãnh đạo của Sở này, với EMG, hay với Bộ Giáo dục & Đào tạo,
thì câu chuyện có vẻ như cũng khá rõ ràng. Đó là dấu hiệu của khái niệm cơ bản
trong các nền chính trị thiếu minh bạch và pháp quyền trên thế giới: sự tồn tại
của cái gọi là chủ nghĩa tư bản vị thân (hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản thân
hữu) – crony capitalism.
Điều
nguy hiểm trong trường hợp này là nó xảy ra trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt
là giáo dục phổ thông. Đây là môi trường đang rèn luyện nên nhân cách và phẩm
chất của những thế hệ người Việt Nam tương lai. Việc lợi dụng chức
vụ để kiếm tiền, câu kết bè phái để kiếm tiền, tạo ra độc quyền về hành chính
(giấy phép) để kiếm tiền, sử dụng học sinh như vật thí nghiệm để kiếm tiền, lừa
dối công luận để kiếm tiền, tạo ra sản phẩm giả để kiếm tiền, bôi nhọ quốc thể
(trong việc ngang nhiên bịa đặt quan hệ với Bộ Giáo dục Anh và STA) để kiếm
tiền… có lẽ là việc đã vượt xa trên nhiều mặt những đặc điểm thông thường của
crony capitalism.
Cũng
cần nhắc thêm là vụ tai tiếng này đã xảy ra không lâu sau khi có một vụ tai
tiếng động trời khác là việc Bộ Giáo dục & Đào tạo tìm cách “xin” Quốc hội
cấp ngân sách xấp xỉ 35 nghìn tỷ Đồng (tương đương hơn 1,5 tỷ USD) để làm lại
sách giáo khoa. Sau khi bị công luận phản bác gay gắt thì lãnh đạo Bộ này mới
trả lời báo chí rằng thực ra trong số đó chỉ có hơn 100 tỷ Đồng là để làm lại
sách giáo khoa, phần còn lại là để mua sắm thiết bị và đầu tư vào cơ sở vật
chất. Hiện tượng này liên quan đến một khái niệm mà tôi gọi là “đào mỏ
ngân sách” (budget mining) sẽ được đề cập trong một bài viết sau.
Giáo
dục Việt Nam :
phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận?
Gần
đây, câu chuyện giáo dục phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận ở Việt Nam
trở nên sôi động, đặc biệt trong cộng đồng những người làm giáo dục. Một số
người ủng hộ giáo dục vì lợi nhuận, như GS Vũ Đức Vượng, trong khi cũng có
nhiều người phản đối như TS Giáp Văn Dương, TS Huỳnh Thế Du.
GS
Vượng cho rằng “hãy cứ dạy vì lợi nhuận đã” và “trường đại học tư có lãi không
phải là điều xấu”. TS Dương và TS Du thì cho rằng “giáo dục nói chung không
phải là nơi để kiếm lợi nhuận” và “khi trường đang ăn nên làm ra thì chẳng có
lý do gì để cổ đông từ bỏ lợi ích tài chính của mình và vấn đề ở chỗ là khả
năng trở thành nơi bán bằng của các đại học vì lợi nhuận rất cao”.
Đây
không phải là một vấn đề mới ở các nước đã phát triển, nhưng ở Việt Nam thì nó
mới mẻ hơn, và cũng có những đặc thù khác xa các nước đã phát triển.
Khác
biệt rất lớn ở Việt Nam khiến cho câu chuyện thảo luận mô hình vì lợi nhuận
hay phi lợi nhuận ở Việt Nam trở nên gần như là vô nghĩa nằm ở ba điểm:
Thứ
nhất là khối tư nhân ở Việt Nam
chưa quen “cho” tiền các đại học. Ở Việt Nam không tồn tại các quỹ tài trợ
cho giáo dục của tư nhân. Việt Nam
cũng không có nhiều các đại gia, tỷ phú, giàu có và sẵn sàng bỏ các khoản tiền
lớn hiến tặng các trường đại học. Văn hoá của người Việt cũng không quen cho
tiền ra bên ngoài (trừ trường hợp là hoạt động tôn giáo), thông thường họ chỉ
hiến tặng cho các cá nhân trong gia đình và trong dòng họ.
Thứ
hai, nhà nước Việt Nam
cũng không có bất cứ đãi ngộ gì với trường đại học tư, dù là phi lợi nhuận hay
có lợi nhuận. Nhà nước không tài trợ tiền cho đại học tư, cũng không có những
quỹ trợ cấp cho sinh viên (dù sinh viên trường tư hay công).
Thứ
ba, các đại học tư, dù khoác áo phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận thì cũng đều bị
đối xử bất bình đẳng so với các đại học công lập vì nhóm thứ hai này được trợ
cấp “tới tận răng”.
Vì
điểm thứ nhất và thứ hai ở trên, dù là đại học tư đi theo con đường vì lợi
nhuận hay phi lợi nhuận thì trước hết cũng phải… có lợi nhuận trước đã. Không
có bất kể nguồn tài trợ nào từ cả phía tư nhân lẫn nhà nước. Vì thế đại học tư
phải hoàn toàn dựa vào nguồn thu duy nhất là học phí của sinh viên, và phải tự
trang trải được.
Kết
hợp với điểm thứ ba, đại học tư ở Việt Nam (bất kể vì lợi nhuận hay phi lợi
nhuận) đều khó sống được khi cạnh tranh với các trường đại học công lập, nơi
học phí gần như không đáng kể và luôn toạ lạc tại các địa điểm trung tâm với
campus hoành tráng. Thực tế là cho đến nay ở Việt Nam vẫn chỉ có vài ba trường đại
học tư thục có lợi nhuận (chưa nói đến chuyện chia lợi hay không). Tuyệt đại đa
số các đại học tư nhằm trong nhóm thứ hai – nhóm đang lỗ nặng.
Vậy
thì tại sao lại phải tranh luận về việc nên làm đại học tư thục theo mô hình vì
lợi nhuận hay phi lợi nhuận? Ở đây có một số thực tế thú vị mà ít người nhắc
tới.
Thứ
nhất là nếu như đằng nào cũng lỗ, cũng không tuyển sinh được bao nhiêu, thì
dùng chữ “phi lợi nhuận” dù sao vẫn sang hơn. Trường Phan Chu Trinh là một thí
dụ. Đây là một trường đại học thành lập cũng khá lâu, số người theo học ít, và
mới tuyên bố trường mình là mô hình trường đại học phi lợi nhuận đầu tiên tại
Việt Nam .
Thứ
hai, có một vài trường hợp (rất hiếm hoi), ban đầu do một số lãnh đạo trường
dựng lên. Sau đó kêu gọi các nhà đầu tư tham gia phát triển trường. Nay trường
đã có lãi nhưng sở hữu của những người sáng lập không còn bao nhiêu. Vậy là nếu
chia thì những sáng lập viên chẳng được bao nhiêu lợi nhuận. Thế là có những
cuộc đấu tranh tan nát trong nội bộ về chuyện trường theo mô hình vì lợi nhuận
(tức là chia cho cổ đông) hay là phi lợi nhuận (giữ lại trường, và vì thế nằm
trong quyền quản lý của các lãnh đạo nhà trường chứ không phải cổ đông).
Thứ
ba, là một vài cơ sở đào tạo, thí dụ trường Fulbright ở Việt Nam, vốn cho tới
nay vẫn được tài trợ 100% từ nguồn tài trợ của nước ngoài. Sự thành công về
chất lượng đào tạo của các cơ sở này (dựa trên nguồn tiền tài trợ lớn, lương
giáo viên cao, miễn học phí nên tuyển được đầu vào giỏi, và quy mô đào tạo nhỏ)
khiến nhiều người có ảo tưởng rằng mô hình này có thể nhân rộng và trở thành
cứu cánh về chất lượng cho giáo dục đại học (hay gọi chung là giáo dục sau phổ
thông) ở Việt Nam.
Thứ
tư, nếu nói về chất lượng bằng cấp, hay chuyện bán bằng, thì phải nói đến hệ
thống đại học công lập với tư cách là thủ phạm chính. Phần lớn các trường đại
học và cao đẳng công lập cho tới nay vẫn có chất lượng không ra gì mặc dù được
ngân sách nhà nước đầu tư rất lớn về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Đó là
chưa kể các chương trình đại học tại chức được triển khai từ khoảng gần 20 năm
nay bởi các trường đại học công lập đã biến hàng chục triệu người thành cử nhân
qua các khoá tại chức với chất lượng sư phạm rất thấp. Mặc dù vẫn có những
người học đại học tại chức ra và có chất lượng thật, nhưng số này quá ít, số
lớn chỉ là “hợp thức hoá” về mặt bằng cấp. Nhiều người sau đó đã “học” tiếp lên
các bằng thạc sĩ và tiến sĩ và trở thành những lãnh đạo quan cấp cao trong bộ
máy nhà nước.
Vậy
thì vấn đề đại học tư nên vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận ở Việt Nam có đáng
được bàn đến hay không? Tôi cho rằng hãy còn quá sớm để bàn tới chuyện này.
Trước hết hãy chờ xem họ (các trường đại học tư thục) có sống được không đã.
Trần
Vinh Dự
Jul
16, 2014
Thị
trường của EMG sau đó phát triển rất nhanh và tập trung mạnh vào Sài Gòn. Tới
cuối năm ngoái, theo số liệu được nhiều báo chí công bố, con số học sinh học
theo chương trình Cambridge
của EMG lên tới xấp xỉ 5000.
http://baomai.blogspot.com/
Sáu mươi năm lưu lạc |
http://baomai.blogspot.com/ 2014/07/moocs-cuoc-cach-mang- trong-giao-duc.html
Toà án VN 'không nhân danh công lý' |
Mâm cỗ có cao hơn tiếng chào? |
Trung Cộng muốn "Thoát-Mỹ" – Mà không dễ |
Tăng "quyền nhục hình” cho công an? |
Một thuở học trò |
Thưa cô - em cũng muốn tin nhưng không thể! |
Có thể đòi được cái đã bán hay chăng? |
Bột nhừ hầm xương trong 10 phút |
Thiếu tá Hồ Chí Minh |
Bê bối 'thịt thối' ở Trung Cộng |
Vĩnh biệt Ca sĩ Quỳnh Giao |
10 hãng đồ ăn nhanh (fast food) |
Hỏa tiễn Đông Phong của TC đe dọa HKMH Mỹ ở Thài B... |
Câu chuyện quen thuộc ở nước Nga |
Về văn học miền Nam 1954-1975 |
Michelle Phan đang phải đối mặt với vụ kiện vi phạ... |
2014_Ai sẽ diện kiến Barak Obama? |
Cơn ác mộng bất bình thường của Vladimir Putin |
Ánh sáng cuối đường hầm |
Những hình ảnh khiến cả thế giới bàng hoàng về thả... |
LHQ thông qua nghị quyết về vụ bắn rơi máy bay MH1... |
Chỉ vì có quỷ sống lẫn với người |
Việt Nam khó cấm bán bia rượu sau 22 giờ? |
Thủ tướng Hà Lan cảnh báo Putin về “cơ hội cuối cù... |
Cẩn thận với sữa đậu nành làm từ... hóa chất Trung... |
Từ thời còn trẻ… đến lúc về già |
Tham, Dốt, Ngu không lối thoát của Cộng Sản |
Chiến tranh Iraq: Bài học về tạo cớ gây chiến |
Sáu mươi năm lưu lạc |
MOOCs, cuộc cách mạng trong giáo dục |
Thánh địa Đạo Dừa Việt Nam |
Lệ Rơi, Lê Văn Tám & Những suy ngẫm về giá trị ảo |
Cuộc sống căng thẳng, người Mỹ quay sang thiền tìm... |
Việt Nam kỷ niệm 60 năm hiệp định Geneva |
Địa đạo Củ Chi |
Văn học và chính trị |
Huỳnh Tấn Mẫm, đảng viên cộng sản phản tỉnh muộn m... |
Để cải cách cần kiểu lãnh đạo khác |
Máy bay Malaysia chở 295 người bị bắn rơi ở miền đ... |
Lý do Samsung bỏ Hàn Quốc sang Việt Nam |
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.