Về danh nhân lừng lẫy, chúng ta nào thiếu gì? Quân Mông Cổ từng dẫm nát cỏ cây từ Âu sang Á. Thế mà ba lần sang xâm lăng Việt Nam đều bị Đức Trần Hưng Đạo đánh bại. Người ta ngưỡng mộ lòng bao dung của Tổng thống Abraham Lincoln đối với binh tướng Miền Nam Hoa Kỳ sau khi chiến thắng trận nội chiến. Còn Đức Trần Hưng Đạo sau khi đánh bại quân Nguyên, được các tùy tướng dâng lên danh sách những tên Việt gian thì Ngài xé ngay lập tức và nói: “Dẹp giặc đã xong, chúng ta hãy tha thứ họ để cùng nhau xây dựng nước nhà” mà hậu thế quên hay sao? Ngoài ra, thân phụ của Ngài là Trần Liễu xúi giục Ngài cướp ngôi Trần Thái Tông để chiếm lấy thiên hạ, nhưng Ngài không thi hành, vì không muốn lòng dân hoang mang.
Thử hỏi tấm gương trung với nước, hiếu với dân như thế không đáng cho con cháu noi theo hay sao? Ai đọc bài Hịch Tướng Sĩ của Ngài mà lại không thấy lòng mình sẵn sàng đứng lên cứu nước để đem lại an bình thịnh trị cho muôn dân? Vì tấm lòng vĩ đại đó mà đời sau phong Ngài lên bậc Thánh là quá xứng đáng.
Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ từ một người dân bình thường, chẳng có bằng cấp gì mà khi đất nước lâm nguy, Ngài cầm quân đánh giặc đông và mạnh hơn quân mình mà chiến thắng một cách chớp nhoáng. Suốt đời đánh giặc, Ngài chưa thua một trận nào. Vậy Ngài không hơn Hoàng đế Napoleon Bonaparte của nước Pháp hay sao?
Nguyễn Trãi theo chân cha là Nguyễn Phi Khanh đến tận ải Nam Quan, khóc lóc vì bị quân giặc Minh bắt mang về Tàu. Cha Ngài chỉ nói: “con là người có học, có tài, nên quay về tìm cách rửa nhục cho đất nước, trả thù cho cha, như thế mới là báo hiếu, đâu phải cứ theo khóc lóc là báo hiếu sao?” Chẳng hay lời cha khuyên con đó không làm lay động tâm can hậu duệ hay sao? Bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Cụ là một triết lý để răn dạy các nhà lãnh đạo tương lai trong việc trị nước và cũng khuyên kẻ sĩ đừng làm thơ than khóc cho số phận riêng mình trong thời ly loạn.
Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm biết việc 500 năm trước lẫn 500 năm sau, mà tới ngày nay con cháu còn lấy lời của Cụ để giải đoán vận mệnh đất nước, vận mệnh thế giới. Vậy có Cụ thua gì Nostradamus?
Thi hào Nguyễn Du trong chuyến đi sứ sang Tàu, đọc cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, khi trở về nước phóng tác thành Truyện Kiều, mà mỗi câu thơ là hàng châu ngọc, chẳng lẽ không xứng đáng lưu trữ trong kho tàng văn học thế giới hay sao?
Tôi chỉ lược sơ qua một số dữ kiện lịch sử để quý độc giả thấy dân tộc mình nào kém gì ai? Chúng ta có tới 4 ngàn năm Văn Hiến cơ mà! Tại sao ngày nay dân ta ra nông nỗi này?
Lúc còn chiến đấu dưới cờ, tôi mong mình còn sống sót sau khi đất nước thanh bình. Tôi sẽ dẫn các con tôi đi thăm những nơi như bãi biển Đồ Sơn, cao nguyên Chapa, Vịnh Hạ Long như Thầy tôi đã dẫn anh em tôi thăm viếng hoặc ngồi kể cho các con nghe những mẩu chuyện về cuộc đời mình, giống như Mẹ tôi thường kể lại cho tôi nghe về bố tôi lúc xưa. Nhưng không may nước đã mất vào tay bọn người phản quốc, vô đạo. Thành thử ước mơ nhỏ nhoi đó không thành.
Tôi có cơ duyên “lạc đường vào lịch sử” để biết một số dữ kiện liên quan đến số phận giống nòi thì viết ra. Tự ví mình như một kẻ lội nước lụt, thấy chỗ nào sâu thì cắm vào đó một cây sào để người lội sau lưu ý, kẻo sụp hố. Liệu việc làm đó không có ích hay sao? Từ một người đã phụng sự quê hương hết lòng vì tự do mà nước bị mất vào tay giặc, phải sống nương nhờ nơi đất khách; từ một phi công ngang dọc giữa trời mây chống lại phong ba bão táp, anh dũng chống lại đạn thù mà nay trở thành người cu-li kiếm sống qua ngày thì danh giá gì mà còn dám huênh hoang về cái thân phận bọt bèo?
Chỉ có ai không biết thẹn cái thân phận của mình thì mới chạy đua theo cái danh hão trong cái "ghetto" mà thôi!
Vậy những gì tôi sắp sửa viết, xin quý bạn đọc hãy xem như là tự truyện của một người thất cơ lỡ vận mà không than khóc, tiếc nuối về một thời quá khứ chẳng có gì vẻ vang.
Ông bà Ngoại của tôi có năm người con gái. Bà Ngoại tôi sợ dòng họ Phạm không có người nối dõi tông đường, nên đưa cô em gái của mình về làm thứ thiếp cho chồng. Nhờ đó, ông Ngoại tôi có thêm hai người con trai. Oái oăm thay! Một người cậu của tôi làm lính trong Quân đội Quốc gia, còn một người cậu khác làm công chức cho Pháp, bị bùa mê thuốc lú, rơi vào tà thuyết cộng sản để rồi năm 1954 tập kết ra Bắc, sống nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, con cái chẳng ra gì! Nghịch cảnh đó gia đình Việt Nam nào cũng có.
Trong năm chị em gái, Mẹ tôi là người gầy yếu nhất, được ông Ngoại cho đi học để sau này lớn lên không phải mưu sinh bằng tay chân vất vả, nặng nhọc. Còn bốn người dì của tôi khỏe mạnh, chẳng ai được đi học. Do đó, chẳng có bà nào biết chữ. Sau khi đỗ bằng Cao Tiểu học, Mẹ tôi thi vào trường Hộ sinh (Sage Femme). Một hôm, chẳng hiểu Mẹ tôi phạm lỗi gì mà ông quan Tây mắng “Sale Annamite!” (Con đàn bà An Nam nhớp nhúa). Tuy là một phụ nữ ốm yếu, hiền lành, Mẹ tôi lập tức cởi chiếc áo “blouse” trắng, trùm lên đầu ông Quan Tây đấm túi bụi. Kết quả, Mẹ tôi bị phạt, phải đổi tới làm việc tại nhà thương vùng nước độc. Vị bác sĩ Việt Nam làm việc tại nhà thương, thấy một người Việt Nam nhỏ nhắn, vì tự ái dân tộc, dám cả gan đánh quan Tây, bèn đứng ra bảo lãnh và hứa dạy cho nhân viên dưới quyền không được phép bạo hành. Ông quan Tây bằng lòng bỏ qua. Do đó, Mẹ tôi không bị đổi đi làm việc tại vùng nước độc.
Ông bác sĩ Việt Nam ra tay cứu Mẹ tôi, chính là Bố của tôi về sau. Tuy ông đã có bốn người con trai với bà vợ trước, nhưng có lẽ thán phục người phụ nữ hiền lành, xinh đẹp mà có khí phách can trường, dám phản ứng vị quan Tây xúc phạm dân tộc mình, Thầy tôi đem lòng cảm mến, đề nghị cưới Mẹ tôi về làm thứ thiếp. Thời bấy giờ, tệ nạn đa thê chưa là vấn đề. Mẹ tôi nhận lời. Về sau, hiểu vì sao Mẹ tôi là người có tinh thần tự ái dân tộc cao, đã phản ứng mạnh mẽ, ông quan Tây đối xử với Mẹ tôi khá lịch sự, không còn có thái độ coi khinh dân An-Nam. Thầy tôi mất sớm, lúc mới 55 tuổi. Mẹ tôi trở thành góa phụ lúc mới 38 tuổi, rất xinh đẹp, có nghề nghiệp, nhiều người đàn ông góa vợ, có sự nghiệp muốn lấy Mẹ tôi. Nhưng Mẹ tôi nhất quyết thủ tiết, thờ chồng, nuôi con. Các anh lớn, con Thầy tôi, rất kính trọng Mẹ tôi vì tấm lòng thủy chung với dòng họ Đặng của bà.
Năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng, Việt Minh nổi lên cướp Chính quyền Trần Trọng Kim. Việt Minh yêu cầu tất cả công chức làm việc cho Thực dân Pháp nhất định không hợp tác với Pháp nếu Thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Sau khi hồi cư trở về, Mẹ tôi mở một bệnh xá nhỏ chữa bệnh cho dân làng. Đồng nghiệp của Mẹ tôi là bác Lê Đình Huệ, thân phụ nhạc sĩ Lê Tín Hương, tác giả bài nhạc nổi tiếng “Có Những Niềm Riêng” xuống tận nhà tôi, mời Mẹ tôi trở lại làm việc tại Nhà Thương Huế vì lúc bấy giờ rất thiếu nhân viên. Mẹ tôi từ chối vì trót thề không hợp tác với Thực dân Pháp. Bà chấp nhận sống nơi thôn dã, dù lợi tức hàng tháng không bằng lương công chức, dù được Chính phủ cấp nhà ở rộng rãi khang trang nơi thành thị. Có lẽ ảnh hưởng tính khí của Mẹ, tôi cũng có tính khí cương cường như thế?
Xứ Huế về mùa Đông, mưa dầm dề, tầm tã, lạnh buốt thấu xương. Bạn đọc hãy tưởng tượng một góa phụ hương sắc còn mặn mà, đêm đêm nằm ôm con kể chuyện về bố nó cho nó nghe thì không còn có một cảnh tượng nào da diết hơn. Nhất là cái đoạn Mẹ tôi tỏ ra hối tiếc vì Cụ Trần Trọng Kim từ chối lời đề nghị của viên Đại sứ Nhật sẽ tiêu diệt bọn cộng sản Hồ Chí Minh không còn một mống. Thầy tôi đứng cạnh, nghe Cụ Kim từ chối, về nhà buồn bã bỏ ăn bỏ ngủ suốt mấy ngày đêm liền. Giá như Cụ Kim đồng ý, thì hai người anh của tôi đâu có bị lính của Võ Nguyên Giáp thủ tiêu tại Đông Dương Đại Học Xá trong chiến dịch Ôn Như Hầu? Sau này, ra Hải ngoại, đọc sách của Giáo sư Lê Xuân Khoa có thuật lại chuyện Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chối lời đề nghị của viên Đại sứ Nhật, tôi cũng cảm thấy lòng mình tiếc rẽ giống như Thầy tôi thuở xưa. Số phận của dân tộc ta sẽ khác nếu cụ Kim gật đầu đồng ý lời đề nghị của ông Đại sứ Nhật thì nước Việt Nam mình đâu ra nông nỗi này!
Năm 1959, tôi đọc cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” do Cụ Hoàng văn Chí biên soạn, thấy bài thơ Lời Mẹ Dặn của thi sĩ Phùng Quán, tự nhiên tôi rung động khủng khiếp, vì lời của bà Mẹ thi sĩ Phùng Quán đúng là lời Mẹ tôi thường dạy tôi thuở thiếu thời. Dù là người không màng công danh sự nghiệp trên trường chính trị, tôi quyết định gia nhập đảng Đại Việt nêu cao lý tưởng Dân Tộc Sinh Tồn để chống lại Cộng sản phi dân tộc, mới hữu hiệu. Trong buổi lễ tuyên thệ, người cán bộ kỷ luật đưa cao cây súng Colt trước mặt tôi và nói: “Kể từ giờ phút này, đồng chí là cán bộ của đảng, phải tuân hành mệnh lệnh đảng và tuyệt đối trung thành với đảng. Nếu đồng chí vi phạm, đảng sẽ thanh toán đồng chí”. Tôi cũng nhìn thẳng mặt anh cán bộ an ninh và nói: “Tôi xin thề. Nhưng đến một ngày nào mà đảng không còn giữ lý tưởng tôi tôn thờ, thì tôi sẽ là người đầu tiên chống lại đảng”. Khẩu khí ngang tàng đó là do ảnh hưởng từ Mẹ tôi. Tôi tự hỏi tại sao anh cán bộ bảo tôi phải trung thành với đảng, mà không phải là trung với Tổ Quốc?
Me tôi kể chuyện Thầy tôi từ chối không gia nhập đảng Cộng Sản, mặc dù người đồng nghiệp của Thầy tôi là bác sĩ nhãn khoa Lê Đình Thám kiên trì thuyết phục. Thầy tôi nói: “Ngoài việc đảng Cộng sản chủ trương “Vô Gia Đình – Vô Tổ Quốc – Vô Tôn Giáo”, đảng còn đề cao chủ trương “Vô sản chuyên chính” mà anh thuyết phục tôi theo, thì hóa ra anh quên tổ tiên mình dạy Bần Cùng Sinh Đạo Tặc hay sao?”. Câu châm ngôn “Bần Cùng Sinh Đạo Tặc” ai nghe qua thì chỉ nghĩ nó có vẻ bình dân học vụ. Nhưng mỗi người đều đón nhận câu nói là kim chỉ nam định hướng cho tương lai nòi giống thì không bao giờ tham gia vào cái đảng chó chết ấy! Vì chủ trương vô sản chuyên chính, nên đảng viên từ trên xuống dưới đều là những thằng ăn cắp là vậy.
Giáo sự dạy Triết Trần Đức Thảo chỉ cần nhớ tới những châm ngôn của tổ tiên thì không đời nào bỏ nước Pháp về giúp “Cụ Hồ” làm cuộc cách mạng vô sản. Thân sinh Giáo sư đâu đến nỗi than: “Giá như ngày xưa tôi cho anh học nghề thợ mộc, thợ nề thì ngày nay cái thân anh đỡ khổ, cái thân tôi đỡ khổ và cái dân tộc này đỡ khổ!”. Lời than vãn của Cụ với ông con trai là nỗi tiếc nuối đau đớn của người cha già: “Dân Việt Nam càng học hành đỗ đạt cao, càng ngu”. Tôi cảm thương cho thân phận người cha của Giáo sư Trần Đức Thảo quá chừng chừng. Đúng là vì cái ngu của trí thức Việt Nam, Hồ Chí Minh mới thành công cuộc cách mạng vô sản!
Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” là một lời dạy đầy tình, đầy nghĩa nói lên tính nhân bản của nòi giống Việt. Thế mà trí thức Miền Nam được lãnh đạo bởi một nhà ái quốc cực kỳ yêu nước Ngô Đình Diệm, lại chạy theo cái bọn xâm lược cộng sản có chủ trương “Giết! Giết nữa! Bàn tay không phút nghỉ” thì không ngu là gì? À quên! Không bị bùa mê thuốc lú của ma quỷ đầu độc là gì?!
Xin hỏi tất cả các sử gia trong nước lẫn hải ngoại: “Có vị vua, vị lãnh tụ nào của Việt Nam đưa sinh viên, đưa cán bộ ra nước ngoài để học cách chửi cha mắng mẹ, để về nước làm cuộc đấu tố long trời lở đất như Hồ Chí Minh không?” Có bao giờ quý vị nghe người con đánh mẹ một cách tàn nhẫn đến nỗi bà mẹ kêu khóc: “Con ơi là con ơi! Cha mẹ đẻ con ra, cưng con như cưng trứng, hứng con như hứng hoa, chưa bao giờ chửi mắng con một lời nào, mà ngày nay con đem mẹ ra đấu tố, chửi mắng và đánh đập mẹ một cách tàn nhẫn như thế này?” Cậu con trai quát lớn: “Con mẹ già khốn kiếp kia, hãy câm cái mồm lại! Chúng mày dâm dục, giao cấu nhau mà đẻ ra tao, chứ nào phải chúng mày muốn có tao trong cuộc đời này? Chúng mày không phải là cha mẹ tao! Chúng mày là địa chủ bóc lột, hút máu nhân dân. Tao phải giết chúng mình để trả thù cho nhân dân”. Quý vị sử gia có thấy Hồ Chí Minh đã tạo nên cảnh tượng kinh hoàng ấy, để cho ngày nay dân Việt mình mất sạch nền văn hóa tổ tiên truyền lại? Xã hội Việt Nam băng hoại, vô đạo đức từ Giáo dục đến Y tế, từ Công An đến Quân Đội là kết quả do Hồ Chí Minh gây ra, chứ ai khác?
Các sử gia hãy chỉ cho tôi thấy ông Ngô Đình Diệm đã phạm bất cứ tội ác nào đối với dân tộc Việt Nam, để ngày nay Cộng sản cứ hối thúc bè đảng của chúng chửi bới nguyền rủa Ngài? Quý vị có thấy bè đảng Việt cộng rất sợ uy danh của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên cứ phải bôi bẩn Ngài? Trong khi Hồ Chí Minh gây vô vàn tội ác đối với dân tộc Việt Nam, một con người đủ các tính xấu như phản phúc (đối với bà Nguyễn thị Năm), vô trách nhiệm làm chồng (đối với bà Nông thị Xuân), vô trách nhiệm làm cha (đối với Nguyễn Tất Trung), dâm dục (đối với nhiều cô gái vị thành niên) thì lại được mang vào Chùa ngồi ngang với Phật? Ai thấy có Thầy Chùa nào dám chống lại Đảng đem tượng Hồ Chí Minh vào thờ trong Chùa không? Sách sử, tài liệu tội ác của Hồ Chí Minh còn rành rành ra đó, đâu phải do tôi phịa ra? Vì tôi viết sự thật về ông tổ của chúng thì chúng bôi nhọ tôi là đương nhiên!
Bùa mê thuốc lú lan tỏa nhanh chóng giống như dịch bệnh. Tại Hải ngoại, có một ông Phó Đề đốc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa treo biển Giải phóng Dân Tộc mà lại lấy hình ảnh tên đại ác Hồ Chí Minh làm thần tượng để bắt chước là cái quái gì? Chỉ vì quỷ ám, thì ông Hoàng Cơ Minh mới hóa trang thành Hồ Chí Minh. Thế mà có những sĩ quan cao cấp. tự hào đời binh nghiệp của mình, bị bùa mê thuốc lú đi theo tôn thờ một Hồ Chí Minh giả! Tôi cố gắng lay họ tỉnh dậy để cho đám con cháu hậu duệ đừng chê cười, tôi lại bị chúng nó mạt sát như cái thằng con đấu tố cha mẹ ngoài Bắc năm 1956! Người Việt Nam có thấy đạo lý luân thường của dân tộc bị đảo ngược không? Người yêu nòi giống như Tổng thống Diệm thì bị chà đạp; kẻ phản quốc như Hồ Chí Minh thì được tôn vinh, là một hiện tượng quá sức xấu hổ cho nòi giống Việt Nam!
Chẳng cần phải là nhà tiên tri, tôi cũng có thể khẳng định rằng nếu tình trạng này còn kéo dài thì nòi giống Việt Nam thế nào cũng sẽ bị hủy diệt trong Cộng Đồng Nhân Loại.
Nhiều người hỏi tôi có cách nào chữa khỏi căn bệnh bùa mê thuốc lú không? Tôi đáp: “Không! Bọn phản lại căn cước tỵ nạn cộng sản đang hoành hành, mà Cộng Đồng khuyến cáo, chúng chẳng thèm nghe, còn đáp trả bằng luận điệu vô giáo dục, thì làm được gì hơn để cứu vãn?”
Bên Việt Nam, bà Nguyễn Phương Hằng đang lật mặt tên thần y lừa đảo Võ Hoàng Yên. Từ đó mới lòi ra cái đám xướng ca vô loại làm từ thiện lấy tiền bỏ túi riêng. Rồi đến Tịnh thất Bồng Lai đổi thành tên Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ, có lão thầy tu cạo trọc đầu, tên Lê Tùng Vân, tự xưng Thầy Ông Nội chế ra một Pháp môn tu đạo lấy cả mẹ, cả con, cả cháu thản nhiên trước mắt Công An Cộng sản. Các quan to trong Bộ Chính trị, trong Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản nghe bà Phương Hằng chửi rủa Võ Hoàng Yên là tên đại bịp, lừa đảo niềm tin của đồng bào và mạt sát thằng Thầy Ông Nội, chắc động lòng ghê lắm! Tại sao ư? Tại vì họ hiểu bà Phương Hằng đang chửi xéo bác Hồ đấy thôi! Giống như ngày xưa có một Nhà Nho hóm hỉnh tặng Thủ tướng Nguyễn văn Tâm bốn chứ “Đại Điểm Quần Thần”. Nhưng về sau một Nhà Nho khác hiểu thâm ý của bốn chữ ấy, giảng cho Thủ tướng Nguyễn văn Tâm hiểu Đại Điểm có nghĩa là Chấm To, mà nói lái là “Chó Tâm” và Quần Thần có nghĩa là Bầy Tôi mà nói lái là “Bồi Tây”. Câu khen ngợi “Đại Điểm Quần Thần” nói lái thành “Chó Tâm Bồi Tây” quả là thâm thúy!
Sự lừa đảo của thằng thần y Võ Hoàng Yên đâu thấm thía gì so với sự lừa đảo, độc ác của Hồ Chí Minh? Sự dâm ô, đạo đức giả của thằng Thầy Ông Nội đâu thấm thía gì so với sự dâm ô của “Bác Hồ vô vàn kính yêu”? Vậy bà Phương Hằng chửi thằng Thần Y Võ Hoàng Yên và thằng Thầy Ông Nội là bà đang chửi xéo Hồ Chí Minh chứ còn gì nữa?
Bộ Chính trị Việt Cộng rất ngu trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng chúng rất láu cá về nhiều chuyện khác. Chắc chắn chúng đau lắm, vì chúng hiểu bà Phương Hằng chửi xéo lão Hồ, nhưng chẳng làm gì được!
Chính Hồ Chí Minh làm cho xã hội Việt Nam băng hoại tận gốc rễ, chứ còn ai vào đây? Bà Nguyễn Phương Hằng ra rả chửi cái xã hội băng hoại toàn diện hiện nay trên đất nước ta là bà chửi Hồ Chí Minh, chứ ai vào đây? Bà lật mặt những đứa tàn ác đạo đức giả, những đứa dâm ô, đồi trụy, chuyển tiền ra ngoại quốc làm mất máu Tổ Quốc là bà chửi cán bộ cao cấp của đảng. Còn mấy đứa “showbiz” thì có đáng gì mà phải chửi? Xã hội có thế nào thì bà mới lớn tiếng đấu tranh quyết liệt để mang lại một xã hội sạch sẽ, trong sáng, văn minh, người biết thương người. Tức là bà đang cố gắng làm cuộc cách mạng không đổ máu dưới chế độ không cho ai được quyền nói, được quyền tụ họp các cuộc biểu tình là một chiến lược vô cùng khôn ngoan. Bà Nguyễn Phương Hằng đôi khi ca ngợi Công An, ca ngợi Chính phủ là chiến thuật vừa đấm, vừa xoa rất cao tay. Điều tối kỵ của đảng là không cho ai được quyền có quần chúng và có truyền thông độc lập. Bây giờ bà là nhà truyền thông nổi tiếng khắp thế giới và có hàng triệu “viewer” theo dõi (tức là đông đảo quần chúng), nghĩa là bà Phương Hằng đã vượt qua hai rào cản mà đảng cấm kỵ lâu nay. Bây giờ nhạc “boléro” có lời than khóc đang nở rộ, giống như thời Sài Gòn than khóc trước khi mất nước là dấu hiệu suy tàn của đảng cộng sản Việt Nam.
Dù hơn 3 triệu người Việt khắp nơi trên thế giới đoàn kết một lòng, cũng không thể lật đổ chế độ cộng sản. Huống chi tình trạng chia rẽ nát bét như hiện nay thì chỉ làm nhục giống nòi trước mắt thế giới mà thôi. Nhưng đảng cộng sản sẽ đổ. Chúng nó sẽ chém giết lẫn nhau vì tranh giành quyền lợi trọng một xã hội tan rã phi đạo đức là tất yếu. Việt Cộng đã dùng gián điệp chui sâu trèo cao trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa để tạo phản. Ngày nay, Trung Cộng cũng áp dụng thủ đoạn chui sâu trèo cao trong bộ máy cầm quyền của Việt Cộng, thì Việt Cộng cũng không thể tránh khỏi sụp đổ là đương nhiên. Tôi suy đoán như vậy đó!
Có người bảo rằng bà Nguyễn Phương Hằng là người do đảng Cộng sản dựng lên để tố giác bọn ca sĩ lưu manh làm từ thiện. Tôi không tin sự suy đoán ấy là đúng. Bởi vì muốn dẹp bọn ca sĩ lưu manh làm từ thiện đểu thì Công An thừa sức làm. Chứ cần gì dùng bà Nguyễn Phương Hằng vạch trần sự nhơ nhớp của xã hội mà đảng đang trị vì? Nên nhớ, bà Nguyễn Phương Hằng tố giác thằng thần y Võ Hoàng Yên mới lòi ra cái đám “showbiz” mang danh nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú do đảng phong tặng đều là những đứa bất lương làm tiền nhân danh từ thiện giống như luật sư Trịnh Hội đang bị Linh mục Thiện lật mặt ở hải ngoại.
Dân Việt Nam bị mắc phải bùa mê thuốc lú nên tên Việt Cộng giả dạng Thầy Chùa Trí Quang mới có thể xách động cuộc đấu tranh đòi quyền tự do tín ngưỡng một cách lếu láo, mà vẫn được dân chúng rần rần chạy theo giống như một lũ đồng bóng. Tới khi Trí Quang đền tội, người ta thấy những người đàn bà ở Huế lăn lộn dưới trời mưa tầm tã khóc thương Thầy một cách thê thiết khi quan tài Thầy được di chuyển ngang qua. Tôi bảo đảm rằng trong cái đám đàn bà khóc thảm thiết đó, thế nào cũng có cha mẹ hoặc thân nhân chết dưới bàn tay Việt Cộng nằm vùng trong Tết Mậu Thân! Ở Hải ngoại, thằng Tiến sĩ Cao Huy Thuần và con Tiến sĩ Thái Kim Lan cũng viết bài điếu văn ca tụng Thầy Trí Quang là vị Bồ Tát mà vẫn được cơ quan truyền thông quốc tế đăng tải. Thú thực, tôi khinh bọn có bằng cấp Tiến sĩ nhưng ngu độn, nên gọi chúng là thằng, là con để bày tỏ sự khinh bỉ. Chứ tôi không phải là hạng người thô lỗ, vô văn hóa.
Giá như tỷ phú Hoàng Kiều đứng về phía Sự Thật, bỏ tiền ra thuê thám tử lật mặt bọn làm Kháng Chiến Bịp, bọn treo đầu dê bán thịt chó, bọn “Cám Ơn Anh” thì đồng bào hải ngoại cám ơn biết mấy! Tiếc thay Hoàng Kiều đi làm chuyện tào lao, vừa mất tiền vừa bị bêu riếu, thật là uổng. Tuy nhiên, vẫn còn kịp, vì Hoàng Kiều vẫn còn nhiều tiền để làm chuyện có nghĩa lý. Chẳng hạn, Hoàng Kiều bỏ tiền ra mua cái bọn truyền thông thổ tả bằng cách trả giá cao hơn, chắc chắn Cộng Đồng sẽ không còn những đứa bị bùa mê thuốc lú làm mất tư cách.
Lá bùa của cộng sản độc hại thật! Nó tàn hại cả một dân tộc có tới 4 ngàn năm Văn Hiến!
Bằng Phong Đặng văn Âu
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.