Những cửa hàng
"Made in Vietnam" trên đường phố.
Với viễn ảnh gia nhập
Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương TPP trong vài năm tới, Việt Nam hy vọng buôn bán
tự do với một khu vực rộng lớn của 12 quốc gia có sản lượng bằng 40% của toàn cầu.
Khi ấy, quy chế về thương hiệu được đặt ra. Đó là điều kiện ưu đãi chỉ áp dụng
cho các hàng hóa hay dịch vụ chế tạo tại một quốc gia thành viên của khu vực
TPP. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vấn đề xuất xứ chế tạo qua cuộc trao đổi với
chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Nguyên Lam: Xin
kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, kinh tế Việt Nam có cơ hội phát triển
mới xuất phát từ hai chuyển động quốc tế. Một là Trung Cộng ở vào giai đoạn
chuyển hướng với đà tăng trưởng thấp hơn và hết chiếm lĩnh ưu thế chế biến hàng
tiêu dùng nhờ nhân công rẻ. Hai là Việt Nam sẽ cùng 11 nước khác gia nhập khu vực
tự do thương mại Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP. Trước viễn ảnh đó, Việt
Nam hy vọng thu hút đầu tư của nước ngoài để thành một công xưởng ráp chế hàng
hóa phần nào thay thế thị trường Trung Cộng và bán cho các nước trong khối TPP
dưới nhãn hiệu là “Hàng Việt Nam”. Nhưng mà nhìn từ giác độ của các thành viên
TPP thì thế nào là “Hàng Việt Nam”? Vì câu hỏi này đang gây tranh luận ở trong
nước, xin hỏi là ông người ta nên nghĩ sao về một giải đáp thỏa đáng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Tôi trộm nghĩ rằng người ta sở dĩ tranh luận chỉ vì lầm lẫn về ngôn từ. Tôi xin
được đi ngược lên khái niệm sản xuất để chúng ta cùng hiểu ra điều ấy.
- Khi thấy thị trường
có một nhu cầu chưa được thỏa mãn mà mình muốn đáp ứng để kiếm lời thì trước hết
phải có sáng kiến sản xuất ra loại hàng hóa giải quyết nhu cầu đó của thị trường.
Yếu tố then chốt ở đây là “sáng kiến”, kế tiếp mới là bố trí sản xuất để từ đó
có một sản phẩm hoàn tất. Việt Nam mà có sáng kiến và khả năng tổ chức để sản
xuất thì sẽ có “Sản phẩm của Việt Nam” hoặc nói theo Anh ngữ là “Product of
Vietnam”. Chỉ trong trường hợp đó ta mới gọi “Sản phẩm của Việt Nam” hay “Hàng
Việt Nam”.
- Yếu tố quyết định
là sáng kiến và khả năng tổ chức để tìm ra kỹ thuật, thiết bị và nguyên vật liệu
hầu sản xuất ra một mặt hàng trước đấy chưa có. Việt Nam chưa đi tới trình độ ấy,
về cả sáng kiến lẫn tổ chức sản xuất, nên chưa thể có “Sản phẩm của Việt Nam”
hay “Hàng Việt Nam”. Đấy là chuyện có thể hiểu được, nhưng bị lãng quên vì cái
bệnh tự ru ngủ và hài lòng với sự tầm thường.
- Vì chưa có khả
năng, Việt Nam phải ăn theo thị trường. Hình thái nhỏ là khi thấy thiết bị đi động
của nước ngoài ăn khách thì ta sản xuất các nhóm phụ kiện, như cho smart phone
hay tablet của Mỹ và Đại Hàn, với giá rẻ mà phẩm chất và độ bền thì
còn thua hàng phụ kiện của hãng chính hay của Trung Cộng. Khi mới bước vào loại
hàng có kỹ thuật cao thì chỉ làm được như vậy mà thôi.
- Lên một trình độ
khác thì xem xứ khác đang kiếm tiền bằng cách nào ta cố bắt chước, là khai thác
sáng kiến của người khác để tham gia vào tiến trình sản xuất. Đa số các quốc
gia đang phát triển đều ở vào trường hợp đó là khai thác sáng kiến của các nước
tiên tiến để góp phần thỏa mãn một nhu cầu của thị trường. Yếu tố then chốt ở
đây là “góp phần”.
Nguyên Lam: Khi
ông nói “góp phần” thì người ta phải tìm hiểu xem là đóng góp chừng nào và cái
phần nào trong sản phẩm là của mình và phần nào là của người khác, của nước
khác. Thưa ông có phải là như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Thưa rằng đúng như vậy và khi ấy ta cần nhìn qua lĩnh vực kế toán.
- Về mặt thương mại,
ta biết giới tiêu thụ thường ưa mặt hàng xuất phát từ các quốc gia nổi tiếng.
Thí dụ như trang phục xa xỉ đắt tiền mà có nhãn hiệu là “Hàng Pháp” hay “Sản phẩm
của Pháp” hoặc “Chế tạo tại Pháp” thì được chiếu cố hơn hàng của Thái Lan chẳng
hạn, nên có thể bán cao giá hơn. Thí dụ kia là hàng công nghệ cao của Mỹ, Nhật,
Hàn. Khi ấy, vấn đề của quốc gia xuất xứ được đặt ra. Đó là quy chế về “quan
thuế” mà Việt Nam cứ gọi sai là “hải quan” vì nhiều cửa quan như phi cảng Tân
Sơn Nhất hay Nội Bài chẳng là hải cảng. Theo quy chế này, chỉ được phép gọi là
Hàng của Pháp, của Mỹ hay của Nhật Bản, Đại Hàn nếu các nước đó góp phần sản xuất
tới hơn 50% của giá thành khi xuất xưởng. “Giá xuất xưởng” là một khái niệm kế
toán được các nước cùng chấp nhận và tín nhiệm dù đây đó tại Việt Nam thì vẫn
có gian lận.
Nhãn hiệu Made in Vietnam
Nguyên Lam: Nguyên
Lam bắt đầu hiểu diễn tiến suy luận của ông. Giả dụ như hãng Samsung của Đại
Hàn có sáng kiến về loại điện thoại cao cấp và tổ chức việc sản xuất sao cho có
lợi nhất, với giá rẻ mà phẩm chất cao, thì họ có thể thiết lập cơ xưởng ráp chế
tại Việt Nam hay Malaysia. Với công nghệ và thiết bị Hàn quốc, phụ tùng hay phụ
kiện của Nhật Bản dưới sự quản lý của kỹ sư Đại Hàn để điều khiển nhân công Việt
Nam hoặc Mã Lai sản xuất ra điện thoại có nhãn hiệu là “Sản phẩm Đại Hàn”.
Trong suốt tiến trình này, từ nguyên vật liệu lên hàng bán chế phẩm rồi sản phẩm
hoàn tất được đóng hộp để bán ra ngoài thì nhiều quốc gia có thể tuần tự góp phần,
nhưng phần chính, hơn phân nửa của giá xuất xưởng, là của Hàn quốc. Thưa ông,
có phải là phương pháp kế toán mới lần lượt bút ghi tiến trình tích lũy giá trị
của sản phẩm hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Thưa vâng và khi ấy, khái niệm “góp phần” hay “trị giá gia tăng” mới được đặt
ra. Trong thế giới gọi là “toàn cầu hóa” ngày nay, còn rất ít sản phẩm là do một
xứ sản xuất nguyên vẹn 100% mà thường là kết quả của nhiều nước cùng tham gia.
Vấn đề chính là nước nào quyết định, căn cứ trên cái gì? Nếu năng suất hoặc tay
nghề của nhân công Việt Nam mà kém nhân công Mã Lai chẳng hạn thì Samsung có thể
dời hãng xưởng mà vẫn có “Sản phẩm Đại Hàn” nhưng ráp chế tại Mã Lai thay vì
ráp chế tại Việt Nam. Khi ấy ta mới cần phân biệt các mặt hàng gọi là “Product
of Vietnam”, với “Made in Vietnam” hay “Manufactured in Vietnam”, tức là “Sản
phẩm của Việt Nam” khác với “Chế tạo hay Ráp chế hoặc Chế biến tại Việt Nam”.
- Việt Nam mới ở vào
trình độ góp phần ráp chế hay chế tạo thôi. Khi Bộ Công Thương của Hà Nội hãnh
diện về Sản phẩm của Samsung dán nhãn “Hàng Việt Nam” thì họ bị hoang tưởng hoặc
nhập nhằng về quy chế thương hiệu. Đấy chỉ là “Sản phẩm Đại Hàn” với phần đóng
góp của Việt Nam chưa tới 50%. Trường hợp tương tự chính là áo quần giày dép của
Việt Nam với phần đóng góp chủ yếu là của Trung Cộng. Loại sản phẩm đó không thể
nào lọt qua ải TPP dù có dán nhãn là “Hàng Việt Nam” vì các thành viên đều truy
lên quốc gia xuất xứ không phải là Việt Nam.
Áo sơ mi Made in Vietnam
Nguyên Lam: Nói
về viễn ảnh gia nhập khu vực Xuyên Thái Bình Dương TPP, giới đầu tư quốc tế đã
nhìn vào thị trường Việt Nam như một cơ hội mới, thí dụ trong các ngành may mặc
áo quần, để “Hàng Việt Nam” được ưu đãi về quan thuế khi bán cho 11 nước kia.
Nhưng khốn nỗi trong cấu trúc Hàng Việt Nam ấy thì phần đóng góp của Trung Cộng
lại chiếm đa số vì Việt Nam chưa có nguyên nhiên vật liệu và nhiều phụ tùng lắt
nhắt, từ cái khóa trên áo hay sợi dây của đôi giày nên cứ phải nhập từ Trung Cộng.
Thưa ông, làm sao mình có thể giải quyết vấn đề ấy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Tôi xin đi từ chuyện xa đến chuyện gần thì dễ thấy toàn cảnh. Năm 1980 Bộ Công
Thương Quốc Tế MITI của Nhật, nay là Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp
METI, lập ra Viện Khoa học Công nghiệp và Thuật lý (Agency of Industrial
Science and Technology) AIST có nhiệm vụ phối hợp hoạt động của 16 trung tâm
nghiên cứu trên toàn quốc với ngân sách rất cao để nghiên cứu và thực hiện 25 dự
án ưu tiên nhằm giải quyết vấn đề tài nguyên và sản xuất và giữ vị trí khoa học
tiên tiến cho Nhật. Cho đến nay, dù có sản lượng kinh tế đứng hạng ba, Nhật vẫn
có ngân sách nghiên cứu và phát triển hạng nhất nên tiếp tục có những sáng kiến
tiên tiến.
- Gần với chúng ta
hơn thì năm 1966, khi kinh tế Nam Hàn còn thua kinh tế miền Nam Việt Nam, họ đã
đề ra hướng phát triển công nghiệp cho 20 năm sau của ba lớp kỹ nghệ. Ba lớp đó
là:
1/ các ngành phôi thai non yếu như thép, đóng tầu, phân bón và ráp chế điện tử.
2/ các ngành có khả năng cạnh tranh là dệt sợi, áo quần hay giày dép – như Việt Nam ngày nay - và lớp.
3/ là các ngành có thể tự túc. Cứ mỗi năm năm thì sự yểm trợ của nhà nước và các tập đoàn sản xuất của tư nhân phải nâng ngành ở lớp dưới lên lớp trên. Tiêu chí của họ là phải bắt kịp và vượt Nhật trên thị trường xuất khẩu. Kết quả là nửa thế kỷ sau, là ngày nay, sản phẩm Đại Hàn như xe hơi hay điện thoại đang chiếm thị phần rất cao trên trường quốc tế của Mỹ, Nhật, Âu.
1/ các ngành phôi thai non yếu như thép, đóng tầu, phân bón và ráp chế điện tử.
2/ các ngành có khả năng cạnh tranh là dệt sợi, áo quần hay giày dép – như Việt Nam ngày nay - và lớp.
3/ là các ngành có thể tự túc. Cứ mỗi năm năm thì sự yểm trợ của nhà nước và các tập đoàn sản xuất của tư nhân phải nâng ngành ở lớp dưới lên lớp trên. Tiêu chí của họ là phải bắt kịp và vượt Nhật trên thị trường xuất khẩu. Kết quả là nửa thế kỷ sau, là ngày nay, sản phẩm Đại Hàn như xe hơi hay điện thoại đang chiếm thị phần rất cao trên trường quốc tế của Mỹ, Nhật, Âu.
- Trong suốt tiến
trình đó, hai nước đang dẫn đầu Đông Á vốn có ít tài nguyên và nhân lực nội địa
đã phát huy sáng kiến và tổ chức để tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động.
Họ lập ra chu trình cung cấp và điều hướng việc đầu tư ra ngoài để dùng bắp thịt
và vật liệu của xứ khác. Nếu nhớ lại thì ta tự hỏi rằng trong những năm đó, Việt
Nam làm gì và nghĩ gì để ngày nay đi mua vật liệu của Trung Cộng và bán bắp thịt
của mình nhờ lương rẻ hầu có phần đóng góp rất nhỏ?
Nguyên Lam: Như
ông vừa trình bày kinh nghiệm của các nước đi trước thì việc có được “Sản phẩm
Việt Nam” thay vì chỉ có “Sản phẩm Ráp chế tại Việt Nam”, người ta cần khởi sự
từ cái đầu, từ khả năng phát huy sáng kiến và tổ chức. Mà có phải là khả năng
đó đòi hỏi tầm nhìn dài hạn của giới lãnh đạo kinh tế và doanh nghiệp hay
không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Đúng như vậy và tôi nhắc đến kỹ nghệ đóng tầu của Đại Hàn, 20 năm trước còn là
phôi thai mà sau đó đã vượt Nhật Bản, còn Việt Nam thì 10 năm trước mới sinh ra
hiện tượng Vinashin với kết quả tồi tệ ra sao thì ta đã rõ. Một tập đoàn kinh tế
nhà nước có sự yểm trợ mọi mặt của nhà nước mà còn vậy thì làm sao tư doanh Việt
Nam có thể cạnh tranh với nhà nước và với quốc tế sau này? Nếu ta có thấy “Hàng
Việt Nam” trong loại phụ kiện cho Samsung hay Apple mà chỉ có ưu thế rẻ tiền mà
chóng hư thì mình hiểu ra nguyên do sâu xa của vấn đề.
- Sau cùng, ta chẳng
nên quên rằng trong hai chục năm qua, công nghệ của thế giới cũng thay đổi nên
phí tổn sản xuất của nguyên vật liệu như tơ sợi hay hàng dệt giảm mạnh, với phần
đóng góp ít hơn của nhân công và nhiều hơn của thiết bị máy móc. Vì vậy, Việt
Nam nên nhìn xa vào đó để tìm nguồn sản xuất và cung cấp khác ngoài Trung Cộng
hầu khai thác được lợi thế về thuế khóa của hệ thống TPP. Chỉ với tinh thần đó
thì mình mới có “Hàng Việt Nam” đích thực. Yếu tố then chốt ở đây là tinh thần,
là tầm nhìn. Chưa khắc phục được bài toán ấy thì mình chỉ đi làm hàng nhái,
hàng giả và “Made in Vietnam” vẫn đồng nghĩa với hàng rẻ mà chẳng bền!
Nguyên Lam: Xin
cảm tạ ông Nghĩa về bài học thấm thía này.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.