Trong bài “Mất cảnh
giác” cách đây ba tuần, tôi nhìn vấn đề từ giác độ những người cầm quyền. Trong
bài này, tôi nhìn từ góc cạnh khác: sự mất cảnh giác của người dân. Luận điểm
chính của tôi là: Không những giới lãnh đạo mà ngay cả phần lớn dân chúng cũng
hờ hững trước những hiểm hoạ đến từ Trung Cộng.
Một người bạn thân của
tôi có cháu họ - con của một cán bộ cao cấp trong chính quyền-, trước, du học tại
Úc, sau, về Việt Nam làm giám đốc chi nhánh một công ty nào đó của Trung Cộng.
Người cháu rủ bạn tôi sang Trung Cộng chơi với những lời hứa hẹn đầy hấp dẫn. Bạn
tôi, vốn ghét những âm mưu bành trướng của Trung Cộng trên Biển Đông, hỏi: “Mày
không khó chịu trước các hành động ngang ngược của Trung Cộng đối với Việt Nam
à?”
Người cháu cười to và đáp: “Thôi, bận tâm làm gì về mấy chuyện đó, chú. Cứ
coi như Việt Nam đã mất trắng vào tay Trung Cộng rồi, mình có làm gì được nữa
chứ. Lo chơi cho vui, chú ạ.”
Tôi có một số bạn bè
thuộc giới trí thức tại Việt Nam. Họ không sỗ sàng như người cháu của bạn tôi.
Nhưng thái độ của họ trước nguy cơ giành lấn biển đảo của Trung Cộng thì cũng
như vậy. Trong những lần chuyện trò, bao giờ tôi cũng là người gợi chuyện về mối
quan hệ giữa Việt Nam với Trung Cộng chứ không bao giờ là họ cả. Ngay cả khi
tôi đặt vấn đề, người ta cũng lảng sang chuyện khác với lý do giống nhau: “Mình
có làm được gì đâu. Suy nghĩ làm gì cho mệt óc!”
Một số người có thể
cãi: Các ví dụ tôi nêu ở trên chỉ là những ngoại lệ. Ở đây, chúng ta gặp ngay một
khó khăn: Khác với ở Tây phương, ở Việt Nam không có những cuộc điều tra dư luận
để chúng ta có được những con số chính xác. Tuy nhiên, bù vào đó, chúng ta có
thể quan sát từ kinh nghiệm giao tiếp riêng của mình. Trước đây, những lần về
Việt Nam, tôi gặp khá nhiều người đủ mọi giới, tôi nhận thấy ít người thực sự
quan tâm đến chính trị. Mà nếu quan tâm, những điều họ quan tâm cũng chỉ quanh
quẩn những giai thoại về đời sống của một số chính khách. Điều quan trọng nhất
trong chính trị là chính sách thì thường bị bỏ quên.
Với những người chưa
có dịp về Việt Nam, có thể quan sát điều này trên facebook. Nghe nói ở Việt
Nam hiện nay có khoảng 30 triệu người sử dụng facebook. Không ai có thể biết hết
những người chơi facebook ấy. Nhưng theo ghi nhận của tôi, trong số mấy ngàn
“friend” và gần mười ngàn “follower”, những người thực sự quan tâm đến chính trị
chỉ là thiểu số. Phần lớn chỉ thích chuyện ăn uống, quần áo, vui chơi, du lịch…
thuần tuý có tính chất giải trí. Nhiều người tuyên bố thẳng thừng: Sẽ hủy kết bạn
với những người thích bàn chuyện chính trị.
Về phương diện xã hội, trước đây có
một số cuộc xuống đường biểu tình chống Trung Cộng ở Sài Gòn và Hà Nội nhưng số
người tham gia bao giờ cũng rất thưa thớt. Mà mấy năm gần đây, những cuộc biểu
tình như thế cũng hoàn toàn vắng bóng.
Có thể nói người Việt
Nam ở Việt Nam rất ít bận tâm đến các vấn đề chính trị, kể cả vấn đề quan trọng
nhất liên quan đến độc lập và chủ quyền quốc gia trên Biển Đông. Ít hơn hẳn những
người Việt Nam đang sống ở hải ngoại. Ở hải ngoại, ở đâu và lúc nào người ta
cũng trăn trở với các diễn biến chính trị trong nước. Mà không phải chỉ là người
Việt Nam lưu vong. Cộng đồng lưu vong nào cũng vậy. Cũng chia sẻ một số những
ký ức tập thể giống nhau. Cũng dằn vặt về vấn đề bản sắc. Và cũng khắc khoải với
những biến động chính trị ở quê gốc. Nhiều người, từ Việt Nam sang, có dịp gặp
gỡ nhiều người Việt sống ở hải ngoại, cứ thắc mắc: Sao sống xa quê hương lâu đến
thế mà vẫn không quên quá khứ và vẫn không thoát được những ám ảnh về chính trị?
Điều quan trọng là
người Việt Nam ở Việt Nam hiện nay ít quan tâm đến chính trị hơn hẳn ngày trước.
Trước, ở miền Nam, hầu như lúc nào người ta cũng sôi sục chuyện chính trị. Ở miền
Bắc cũng vậy. Trong đời sống cũng như trong văn học, đề tài chính trị lúc nào
cũng nóng hổi. Chỉ có hiện nay người ta mới nguội lạnh trước số phận của đất nước.
Nguội lạnh đến mức gần như vô cảm. Tại sao?
Câu trả lời, thật
ra, rất đơn giản và đã được nhiều người đề cập: Đó là hậu quả của các chính
sách tuyên truyền và giáo dục của nhà cầm quyền mà biểu hiện cụ thể nhất là qua
lập luận: “Chuyện quốc gia đại sự hãy để nhà nước lo, đồng bào đừng bận tâm.”
Xin lưu ý là kiểu lập luận này khác hẳn với chủ trương của đảng Cộng sản trước
đây. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như chiến tranh Nam Bắc, đảng Cộng
sản và nhà cầm quyền Hà Nội lúc nào cũng đề cao sức mạnh của quần chúng, kêu gọi
quần chúng tham gia vào các công tác chính trị. Bây giờ, ngược lại, họ đẩy quần
chúng ra ngoài, biến thành những kẻ bàng quan và vô trách nhiệm trước các biến
động của đất nước. Có thể nói là họ sợ việc quần chúng quan tâm đến chính trị.
Mà sợ cũng phải. Năm
ngoái, khi chính quyền Hà Nội chủ trương chặt hạ 6700 cây xanh trên 190 con đường
ở thủ đô, dân chúng phản đối quyết liệt, cuối cùng, chính quyền phải rút lại
cái lệnh quái gở ấy, hơn nữa, còn bị buộc phải kiểm điểm về quyết định và quá
trình thi hành quyết định ấy của mình. Đầu năm nay, dân chúng phát hiện và phản
đối việc tỉnh Sơn La có dự án chi cả 1.400 tỉ đồng cho việc xây dựng khu lưu niệm,
kể cả tượng đài Hồ Chí Minh, đã khiến không những chính quyền Sơn La mà cả
chính phủ trung ương phải lúng túng. Đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải
ra lệnh xét duyệt lại dự án bị dân chúng phản đối ấy. Gần đây, khi dân chúng
phát hiện những lỗi sai nghiêm trọng trong bộ sách thực hành kỹ năng sống bậc
tiểu học, Bộ giáo dục đã phải ra lệnh thu hồi toàn bộ các cuốn sách ấy.
Qua các trường hợp
họa hoằn vừa kể, chúng ta thấy rõ sức mạnh của quần chúng (nếu quần chúng biết
tận dụng!). Đó là điều chắc chắn chính quyền Việt Nam không hề mong muốn. Chính
vì thế, họ có hai sách lược: Một là giấu giếm toàn bộ các việc làm của họ để
không ai biết và không ai phê phán cả. Hai là họ nỗ lực tuyên truyền và giáo dục
dân chúng trở thành vô cảm. Cho đến nay, không thể nói là họ không thành công.
Tiếc, sự thành công của họ lại là một bất hạnh lớn nhất của cả nước.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.