Ngày 29-9 năm nay đã
là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông
vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn
mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận
chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
I – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ
RƠI?
Kể từ ngày lập quốc,
nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường
Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ
phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Frank Snepp in Saigon
Chính vì vậy mà những
người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu
Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn
300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời
cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm
lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là
do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp
huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có
nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa.
Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi
VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG
3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh
viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi
lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại
Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm
CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị
đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được
trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của
Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để
trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng
quan tâm.
Sau biến cố 1975
Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò
một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt
Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những
bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra
tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức
CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ
nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp.
Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc
Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì
mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết
Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker.
Frank
Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư
thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên
gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên
văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to
foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which
Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4
năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI
Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng
Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và
Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả
cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước
ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được
thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết
chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã
tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên
Xô, Trung Cộng, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước
thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là
Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một
cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TC và Hà Nội vào năm
1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt
về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều
tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc
Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có
cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa
thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những
cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức
thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản
vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến
Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô
vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của
Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung
cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23
điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho
Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28
ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ
chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng
chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm
soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được
tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp
Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có
một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ
xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội
4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho
công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa
sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế
cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời
khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong
vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích
thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày
đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng
Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định
Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng
nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng
chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà
Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực
sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa
tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở
tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến
tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng
CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số,
không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT
NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975
Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối
cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa
đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà
nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của
Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng
Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và
nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The
Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng,
theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng
John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số
cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải
quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối”
(Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là
Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp
Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải
tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu
năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu
đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ
giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo
Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên
(Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận)
và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp
mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ
Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về
quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau
buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5,
theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình
cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên
bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon
từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm
1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến)
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình
gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày
24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang
tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc
Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự
HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá
Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng
Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá
(Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết
lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu
đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời
gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi
sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống
mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn
toàn có thật.
Như vậy là kịch bản
bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau
khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước
tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1:
Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford
không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng
quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161).
Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở
lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được
tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế
hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng
2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS
của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn
Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO
THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng
3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải
thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà
sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau
này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent
Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the
brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one
could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975,
Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi
Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có)
cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào
cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên
Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid
commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were
necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi
Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn
thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ
nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn
(Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong
cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975.
Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công
vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3,
một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng
Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó
trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của
HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng
Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng.
Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ
lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu
phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố
gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku
nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong,
trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước
Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển
nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH
đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết
thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn
trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.
Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau
30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người
ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ
không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại
sự thật cho lịch sử.
Bùi Anh Trinh
tội của Nguyen V Thiêu phải tính từ khi nhận nhiệm vụ theo phe đaỏ chính 1963 tiến chiếm Dinh độc lập và góp phần lớn cho thành công của các tướng tá phản loạn và làm nô lệ cho quan thày Mỹ, gây hậu quả đưa đến sụp đổ VNCH sau này!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!! phản bội chính nghĩa, tổ quốc đều là tôi đồ của dân tộc!!!!!!!!!!!!
ReplyDeleteChỉ nhắc tới một mình Nguyễn Văn Thiệu, là sai lầm, cái vấn đề chính là sau Thế Chiến 2, nếu My ko để và giúp Pháp quay lại đô hộ VN, thì ko có
ReplyDeleteVietnam War, đã giúp Pháp rồi "hẩy" Pháp ra bằng cách để kệ Pháp chống đối Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ, nếu My dùng B52 thì VM hay VC đã đi tiêu rồi, vì vậy mà Pháp fải cắn răng rời bỏ An Nam, My nhẩy vao đưa ông Diệm và hàng triệu dân Bắc tỵ nạn cs vào Nam, thành lập vnch đệ I, ông Diệm lên làm Tổng Thống, năm 1960, 62, báo chí và chính phủ My đã công khai hô hào dân miền Nam lật đổ TT Diệm, thấy ko có động tĩnh gì rồi lại hô hào các Tướng Lãnh đảo chính, lúc đó Đại sứ vnch ờ My ko báo cho TT Diệm đối phó..., bất cứ ai lên thay ông Diệm mà cứ theo chính sách "bám My", trước sau rồi cũ chết!!!!!!! Tại sao BM ko vào thư viện tìm hiểu hồi đó báo chí My và TV My nói gì đến South VN??????
Quý vị còn nhớ ko, năm 1963, Madam Nhu được mời sang My fỏng vấn, được đón tiếp nồng hậu, cùng năm Tư lệnh Không Quân vnch Nguyễn Xuân Vinh sang My tu học (?), chẳng nhẽ Tương Vinh ko biết gì hay sao???? Khi bà Nhu đột nghe thấy trong nước đảo chính, bà ta lập tức quay về New York bay sang Pháp, ở phi trường NY, trước mặt các ký gỉa, bà ta đã lớn tiếng nói "You stabbed on my back"!!!!! Cần fải nhớ rằng KO THỂ ĐỂ CÓ VIETNAM WAR thứ 2 xẩy ra!!!!!!!!
ReplyDelete