Chỉ tịch Trung Cộng
Tập Cận Bình (trái) và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Hai ngày viếng thăm
Việt Nam ở cấp độ quốc gia của Tập Cận Bình đã trôi qua, nhưng dư âm của nó thì
phải còn khá lâu mới chìm xuống. Nhìn chung, đây là một sự kiện chính trị rất
êm thấm nếu tính đến những “khác biệt” chưa được giải quyết thỏa đáng giữa hai
quốc gia, nổi bật nhất là những tranh chấp lãnh hải ở biển Đông. Ngoài một vài
cuộc biểu tình nhỏ nhanh chóng bị dập tắt một cách khá tàn bạo bởi lực lượng
công an của nhà nước, những tiếng ồn ào còn lại đến từ 21 phát đại bác và những
tràng pháo tay giòn giã của đại biểu quốc hội dành cho thượng khách quốc gia Tập
Cận Bình và phu nhân.
Không ai đủ ngây thơ
để tin rằng Tập Cận Bình đã bỏ thì giờ quí báu của mình đến thăm Việt Nam chỉ để…
phát chẩn (gồm chút đỉnh tiền bạc và vài câu thơ Đường) và rao giảng về tình cảm
chính quyền và nhân dân Trung Hoa dành cho Việt Nam. Đa số quan sát viên tin rằng
Tập Cận Bình đến Việt Nam để gây áp lực với đảng và chính quyền cộng sản Việt
Nam (CSVN) ở nhiều lãnh vực, trong đó quan trọng nhất có thể là thành phần nhân
sự chóp bu của đảng CSVN trong nhiệm kỳ tới và cung cách ứng xử của Việt Nam về
những xung đột quyền lợi ở biển Đông.
Chúng ta không biết chắc những thỏa thuận
ngầm nào đã được ký kết, nhưng dựa trên những sự việc xảy ra kể từ hội nghị
Thành Đô (tháng 9 năm 1990), có rất ít lý do để cho rằng Tập Cận Bình đã ra về
với hai bàn tay trắng. Bởi vì tập đoàn lãnh đạo CSVN không quen nói “không” với
thiên triều. Theo sử gia Tạ Chí Đại Trường (TCĐT), một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng
hòa (VNCH), sự “ngoan ngoãn” của các nhà lãnh đạo Việt Nam không chỉ đơn giản đến
từ quan hệ đàn anh đàn em giữa hai đảng cầm quyền mà còn là sự kế thừa từ quan
hệ lịch sử văn hóa giữa hai nước, vốn có nguồn gốc tự ngàn xưa.
*
Hồi cuối tháng 7 năm
nay (2015), tôi có cơ hội trao đổi với sử gia Tạ Chí Đại Trường (TCĐT). Tôi gửi
hai câu hỏi qua email để nhờ ông giải đáp. Nguyên văn hai câu hỏi như sau:
1.
Các yếu tố tạo nên tâm lý thần phục thiên triều của các vương triều Việt
Nam trong lịch sử?
2.
Đảng cộng sản Việt nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại
sao?
Mặc dù sức khỏe bắt
đầu suy sụp từ nhiều tháng trước đó, sử gia TCĐT đã cố gắng hồi đáp khá nhanh,
cũng qua phương tiện email. Trước hết, TCĐT cho rằng hai câu hỏi “níu kéo” nhau
“vì cũng chỉ là chuyện quan hệ Việt-Trung mà thôi”. Ông xác nhận tâm lý thần phục
Trung Hoa là hoàn toàn có thật, và tâm lý này mang nặng tính lịch sử và văn
hóa. Về mặt địa lý, hai nước kề cận nhau thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, và
theo lẽ thường, “thằng nhỏ phải thua thằng lớn”.
Đối với nước nhỏ,
đánh nhau là chuyện bất đắc dĩ, ngay cả khi thắng trận, giành lại được ngôi vị
thì vẫn phải xưng thần để cảm ơn nước lớn đã không… đánh tiếp và đã phong chức
cho mình. Điều này xảy ra nhiều lần trong lịch sử vẻ vang dựng nước và giữ nước
của dân đất Việt, “lâu ngày thành thói, có chuyện tranh giành trong nước, bị
thua thì kéo nhau qua Tàu nhờ phân xử, như họ Trần cầu viện Minh đánh Hồ Quý
Li, Trịnh Lê cầu Minh đánh Mạc, Lê Chiêu Thống v.v..”. Theo TCĐT, chính là vì vậy
mà cái thế “nước nhỏ” càng lúc càng thấp thỏi, phải chịu đựng một thứ tâm thức
Phiên thuộc, kéo dài thành một thứ ông gọi là “Hội chứng Phiên thuộc”.
Sử gia TCĐT cho biết
thêm cái hội chứng phiên thuộc còn có gốc rễ sâu xa từ áp lực nặng nề của văn
hóa Hán. Theo ông, “các nho sĩ làm quan được là nhờ chữ Hán, sống trong khung
trời Hán học nên có lúc tưởng mình là người phương Bắc, không được thì cũng
ráng nghĩ làm sao cho có dạng phương Bắc”. Ông dẫn chứng: “Quyển Toàn thư dịch
ra tiếng Việt, ví dụ có chữ ‘nước ta’ thật ra trong bản văn gốc nó là ‘ngã Trung
Cộng nhân’ (1). Sách triều Nguyễn không xưng là dân Việt mà xưng là ‘dân Hán’,
còn người Tàu là ‘Đường nhân’”.
Liên kết tâm lý
phiên thuộc này với giới lãnh đạo CSVN thuộc nhiều thời kỳ, TCĐT nhận xét: “Cái
tâm lý [phiên thuộc], kiến thức đó âm ỉ trong phần lớn đám cộng sản ngoài Bắc
khiến họ thấy thân thiện một cách tự nhiên khi nhờ cậy [Trung Cộng] từ những
năm 1950. Cú xung đột 1979 vì Tàu chận âm mưu làm bá chủ Đông Dương của nhóm Lê
Duẩn kiêu ngạo chiến thắng nhưng chiến tranh biên giới, Kampuchia làm các anh
cũng ê mình, lớp người nối tiếp tất nhiên không có dũng khí của cha anh nên
không những phải chịu Tàu lấn lướt mà tâm thức phiên thuộc trỗi dậy nên có lời
phân trần chính thức của nhà chức trách Đảng ‘Từ xưa ta cũng phải xưng thần’”.
*
Cái hội chứng phiên
thuộc này được hăng hái kế thừa bởi các lãnh tụ CSVN rất sớm. Có thể một phần của
cái cảm giác “thân thuộc” họ dành cho đất nước Trung Hoa đến từ thực tế là hầu
hết các lãnh tụ tiền phong của đảng CSVN đã sinh sống và hoạt động ở đây ngay từ
những năm 1930. Hội nghị thống nhất các tổ chức CSVN do Nguyễn Ái Quốc triệu tập
và Đại hội Đại biểu Toàn quốc đầu tiên đã diễn ra ở Hong Kong và Macao thuộc lãnh
thổ Trung Cộng chứ không phải ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1950, hội chứng
Phiên thuộc dưới một dạng thức mới, một tôn ti mới, “đàn anh đàn em”, ngày càng
rõ nét với sự “ngoan ngoãn” của tập đoàn lãnh đạo CSVN trong việc thực hiện
chương trình Cải Cách Ruộng Đất theo chỉ thị của cố vấn Trung Cộng một cách sít
sao.
Vào năm 1958, công hàm mà nhiều người cho rằng mang tính bán nước của cố
thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thấy tâm lý lệ thuộc tự nguyện của đám chóp bu CSVN
đã lên đến cao độ. Điều này tiếp tục vào năm 1974, khi hải quân Trung Cộng sát
hại 74 thủy thủ VNCH và chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Hà nội đã
không hề mở miệng phản đối.
Không những vậy, theo nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá
Quân đội Nhân dân, cựu phó tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, “đồng chí” Lê
Đức Thọ đã trấn an mọi người: “Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các đồng
chí Trung Cộng còn hơn là trong tay ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ”.
Làm thế nào mà một
người dân Việt Nam bình thường có thể yên tâm giao trứng cho ác?
Nhiều năm trước
khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa, một người lính VNCH khác, học giả Phạm Việt
Châu, bút danh của cố Trung tá Phạm Đức Lợi, đã lên tiếng cảnh báo không chỉ Việt
Nam mà toàn thể Đông Nam Á về mối họa Trung Cộng trong chuỗi bài viết “Trăm Việt
Trên Vùng Định Mệnh” đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa (Sài gòn) trong những
năm 1969 – 1974. Một cách sáng suốt, tác giả chỉ ra rằng “nhân dân Đông Nam Á
không có vấn đề Trung Cộng riêng rẽ mà chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì lúc nào cũng
chỉ là Tàu, và cái mưu đồ theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá các dân tộc nhỏ
yếu xung quanh (dưới hình thức này hay hình thức khác) từ xưa đến nay cũng vẫn
thế”.
Xung đột biên giới
Tây Nam với Campuchia vào nửa sau những năm 1970 dẫn đến cuộc chiến tranh biên
giới phía Bắc do Trung Cộng phát động vào năm 1979 với tuyên bố xấc xược của Đặng
Tiểu Bình “dạy cho [đàn em] Việt Nam một bài học”. Đây thật ra là cơ hội rất tốt
để CSVN gỡ cái tròng băng đảng anh em vô sản quốc tế ra khỏi đầu mình. Cũng chỉ
được một số năm, cho đến khi hải quân Trung Cộng đánh chiếm quần đảo Trường sa
và sát hại 64 chiến sĩ Việt Nam vào năm 1988. Phản ứng của chính phủ Việt Nam đối
với sự kiện quan trọng này, nhìn ở góc độ bao dung nhất, được cho là vô cùng yếu
ớt. Không bao lâu sau đó, nhiều văn kiện quan trọng (vẫn còn nằm trong vòng bí
mật sau một phần tư thế kỷ) được ký kết giữa lãnh đạo hai nước tại hội nghị
Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Điều đáng lưu ý là vị trưởng lão cố vấn cho phái
đoàn CSVN không ai khác hơn là cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã ký công
hàm 1958 thừa nhận chủ quyền của TQ trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách
mau mắn!
Như vậy, sau một thập
kỷ tương đối độc lập, giới chóp bu CSVN lại quay về thần phục thiên triều,
không phải vì nhu cầu ích nước lợi dân mà chính vì sự sống còn của đảng CSVN
ngay vào thời điểm hệ thống cộng sản ở Đông Âu đang trên đà sụp đổ. Đây chỉ là
một trong số không ít lần đảng CSVN đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của
tổ quốc và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Đúng như sử gia TCĐT nhận xét,
“quyền lợi lớn quá nên không thể để mất đảng…”.
*
Từ sau hội nghị
Thành Đô, có nhiều dấu hiệu cho thấy sự nhượng bộ, đôi khi tự nguyện, của chính
quyền Việt Nam trong một số lãnh vực. Hiệp ước Biên giới (trên đất liền) năm
1999 vẫn tiếp tục là điều được dư luận nhắc nhở mỗi khi quan hệ Việt-Trung được
mang ra thảo luận. Trong khi phe thân chính quyền khăng khăng cho rằng đây là một
hiệp ước công bằng, bài học địa lý quen thuộc của nhiều thế hệ học sinh Nam Bắc
vốn luôn luôn có câu “Nước Việt Nam hình cong như chữ S, kéo dài từ ải Nam Quan
đến mũi Cà Mâu” đã không còn đúng với thực tế! Ngoài ra, Việt Nam thường tỏ ra
dè dặt một cách thái quá khi phải đối đầu với Trung Cộng, tránh né đến mức tối
đa việc buộc Trung Cộng phải nhận trách nhiệm trong việc thay đổi hệ sinh thái
sông Mekong, ảnh hưởng vô cùng tiêu cực lên đời sống hàng chục triệu dân ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Gần đây, có những bằng chứng cho thấy Ủy ban Sông
Mekong do chính quyền lập ra đã sản xuất một báo cáo mà kết quả đi ngược lại
các công trình nghiên cứu quốc tế liên hệ về hậu quả nghiêm trọng do việc xây cất
các con đập ở thượng nguồn sông Mekong (thuộc lãnh Thổ Trung Cộng).
Về hiểm họa này, từ
hơn 15 năm trước, nhà văn, bác sĩ quân y (VNCH) Ngô Thế Vinh, đã lên tiếng báo
động với các “tiểu thuyết dữ kiện” Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (xuất
bản lần đầu năm 2000) và Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch (xuất bản lần đầu
năm 2007) cùng nhiều bài biên khảo, tiểu luận liên quan đến hệ sinh thái sông
Mekong mà ông cho ra đời khá thường xuyên. Gần đây nhất là các bài viết “Năm
Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi” và “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ - Miền Tây Đau
Thắt Ngực” để chỉ ra cái hiểm họa mà ông và các thân hữu trong Nhóm bạn Cửu
Long lên tiếng báo động từ lâu nay đã trở thành một tai họa có thật đang
giáng xuống đầu người dân vùng châu thổ sông Cửu Long (Việt Nam) và vùng biển Hồ
Tonle Sap (Campuchia). Điều đáng chú ý là bài viết “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ
- Miền Tây Đau Thắt Ngực” chỉ ra sự ngoan cố của Hun Sen, đương kim thủ tướng
Campuchia, người vẫn khăng khăng bào chữa cho Trung Cộng trong khi bằng chứng
các con đập thượng nguồn ở Trung Cộng là thủ phạm gây ra tình trạng khô kiệt ở
vùng Biển Hồ là điều không thể chối cãi.
Xem ra về mặt cúc
cung tận tụy với thiên triều, đảng CSVN nay đã có một đối thủ đáng gờm.
*
Không ít người cho rằng
lần viếng thăm Việt Nam vừa qua của Tập Cận Bình là một cơ hội rất tốt cho
chính quyền Việt Nam gửi đến người cầm đầu Trung Cộng một thông điệp rõ ràng về
“dáng đứng Việt Nam” trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt trong vấn đề tranh chấp
lãnh hải ở biển Đông. Chỉ trong ít ngày trước cuộc thăm viếng, một số biến cố
thuận lợi cho Việt Nam liên tiếp diễn ra. Ngày 27 tháng 10, 2015, khu trục hạm
Lassen của Mỹ xâm nhập vùng “12 hải lý” của đảo nhân tạo Subi thuộc quần đảo
Trường Sa nhằm phủ nhận “chủ quyền” mà Trung Cộng ngang ngược tuyên bố trước
đó. Sau đó ít hôm là vụ Philipines kiện Trung Cộng về chủ quyền trên biển Đông
được tòa án quốc tế đặt ở Hà Lan nhận thụ lý. Kế đến, bộ trưởng quốc phòng Nhật
thăm Cam Ranh, đề nghị tập trận chung v.v… Tuy vậy, dựa trên cách ứng xử của
nhà cầm quyền chung quanh lần viếng thăm của chủ tịch Tập Cận Bình, không có dấu
hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo CSVN đã tận dụng những biến chuyển thuận lợi
này để mạnh dạn đương đầu với áp lực của vị khách đến từ phương Bắc.
Theo thiển
ý, hành động đàn áp những người biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh không chỉ
tô đậm thêm hình ảnh tiêu cực của chính quyền Việt Nam về mặt nhân quyền trong
mắt giới quan sát quốc tế mà còn là điều vô cùng thất sách, gây bất lợi cho công
cuộc tranh đấu giành lại chủ quyền biển đảo. Nếu buộc phải né tránh việc công
khai thách đố Tập Cận Bình về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì
tâm lý Phiên thuộc hay vì một lý do nào khác, Việt Nam vẫn có thể lợi dụng các
cuộc biểu tình này để gián tiếp bày tỏ vị trí của chính quyền và tâm tư của
nhân dân Việt Nam đối với cuộc tranh chấp lãnh thổ đang xảy ra giữa hai quốc
gia. Bằng cách dập tắt những cuộc biểu tình, chính quyền Việt Nam đã không chỉ
vùi dập tiếng nói chính đáng của người dân mà còn tự làm suy yếu tư thế đàm
phán của chính mình.
*
Người cộng sản, kiêu
ngạo một cách vô căn cứ, luôn cho rằng họ xứng đáng hơn bất cứ ai hết để cai trị
đất nước và nhân dân Việt Nam. Những tuyên bố theo kiểu “còn đảng còn mình” hay
“mất đảng mất đảo” cho thấy đối với họ việc đảng này giành độc quyền lãnh đạo đất
nước trong gần ba phần tư thế kỷ là chuyện… trời cho, là mệnh Trời.
Mệnh Trời hay mệnh
con Trời?
ReplyDelete-
Bản đồ Châu Á bị sụp đổ còn lại như trên khi Biển Đông nổi sóng lúc Trung cộng bị cả thế giới đánh, boycott và nội chiến phá tan.
Nga dùng bom nguyên tử đánh Ukraina thì NATO đánh Nga, bản đồ Châu Âu như hình trên.
Trời thương nên chưa Tận Thế cả Quả Cầu 68, chỉ Nga và Trung Công bị Tận Thế do Luật Nhân Quả trừng phạt mà thô