Tháng chín, trăng thu
về vằng vặc, đẹp trội, sáng hơn bao giờ, soi rọi tâm tư hoài nhớ của những người
tương tư cố hương. Tháng chín năm nay cũng là năm giỗ thứ 8 của hoạ sĩ Thái Tuấn,
người được xem là một trong những tay cọ đã tạo nên một dấu mốc quan trọng đối
với sinh hoạt hội họa ở Miền Nam Việt Nam. Người mà nhà phê bình hội hoạ Huỳnh
Hữu Ủy gọi là “một bóng dáng lớn của nền nghệ thuật Việt Nam”.
Vào những năm sau khi hiệp định Genève chia cắt
đất nước làm hai miền được ký kết, văn học nghệ thuật miền Bắc bắt đầu chịu sự
chi phối và định hướng của nhà cầm quyền. Mọi sáng tác, nghệ thuật đều bị đặt vào khuôn
phép và kiểm soát với mục đích chính trị phục vụ chủ nghĩa xã hội, khiến những
sản phẩm tinh thần được tạo ra trở nên nghèo nàn, đơn điệu, đồng dạng, đến buồn
thảm. Trong khi ở miền nam, nhờ không khí tự do và sự khát khao đổi mới, sinh
hoạt văn học nghệ thuật rực lửa hơn bao giờ hết.
Bộ ba Thái Tuấn, Duy Thanh và
Ngọc Dũng đã xuất hiện như một luồng gió mới của ý thức tự do sáng tạo, thổi và
góp phần thành tựu cho nền mỹ thuật hiện đại Miền Nam. Vào những thập niên
60-70, nhóm Sáng Tạo và Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam ra đời.
Chân dung tự hoạ, 1960(Sáng Tạo bộ mới, Sài Gòn)
Tên thật của Thái Tuấn
là Nguyễn sinh Công. Sinh 1918 tại Hà nội. Theo học Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông dương, rồi bỏ dở. Sau hiệp định Genève 1954, ông cùng gia đình vượt tuyến
vào Nam, sống bằng nghề vẽ quảng cáo vào những năm 1955- 1956. Triển lãm đầu
tiên của ông vào 1958 ở Pháp văn đồng minh hội, gồm 40 họa phẩm sơn dầu.
Những
bức tranh như, Người Thiếu Phụ Cầm Quạt, Lễ Phục, Thôn Nữ, Người Phu Trạm…được
nhắc nhở nhiều đến trong cuộc triển lãm như một đặc trưng của nỗi lòng tư hương.
Sau này trong hầu hết những tác phẩm khác, ý niệm hoài hương vẫn bàng bạc trong
tranh ông, từ Bắc vào Nam, từ Việt qua Pháp. Ngoài việc vẽ tranh, Thái tuấn còn
là một nhà nhận định và phê bình mỹ thuật xuất sắc nhất Sài Gòn thời đó. Ông
thường có mặt trong các Hội đồng giám khảo mỹ thuật quốc gia. Và dĩ nhiên lá
phiếu của ông có tầm rất quan trọng cho các tài năng mới như Nguyễn Trung,
Nghiêu Ðề, Nguyễn Phước, Ðinh Cường, Cù Nguyễn, Lâm Triết, Trịnh Cung...
Triển
lãm sau cùng của ông được tổ chức ở phòng tranh Tự do tại Sài Gòn. Ông ra đi vào
ngày 26 tháng 9 năm 2007, tại chính căn nhà, nơi ông từng bắt đầu sống những
ngày đầu tiên ở Sài Gòn sau cuộc di cư năm 1954.
Tháng chín, đêm xuống,
gió nhớ ai, mà vườn sau, ngát hương chanh, hương bưởi. Trăng giữa mùa động tình
ôm trọn bờ ngực xanh của những trái đồi xao xác đám lá uá rụng đêm.
Hữu tình
làm sao, người hoạ sĩ năm nào lại chọn đúng tiết thu, trăng sáng mà ra đi nhỉ?
Nàng
Hằng trên cao, như rực rỡ cười, chào đón người hoạ sĩ đi về chốn thâm trầm, tịnh
mặc, xa cuộc đời xao động. Hay nàng vừa xuống trần gian mà lung linh bước vào
tranh Thái Tuấn như những ngày tháng cũ? Phải nói là những người thiếu nữ trong
tranh Thái Tuấn có một nét u mặc, mơ huyền, dịu dàng, đằm thắm, vừa xa vắng, mông
lung, vừa như ẩn như hiện tựa vầng trăng.
Sống trong thời đại
kỹ thuật cao với khối óc người thưởng ngoạn mở rộng nhờ liên mạng và máy vi tính
ngày nay, có lẽ hơi khó cho chúng ta trở về thời điểm năm mươi mấy năm xưa để sống
cái không gian mà những người hoạ sĩ tiền phong Thái Tuấn đã sống. Xem tranh Siêu
thực của Salvador Dali, Frida Kahlo hiện đại, chúng ta nhớ tới cội nguồn tranh
biểu hiện Cezanne, Van Gogh. Xem tranh của Thái Tuấn để hay, để biết về một cột
mốc quá khứ của mỹ thuật Việt Nam ngày xưa cũng là một nhắc nhớ rất gợi hình. Đặc
biệt là tranh thiếu nữ của ông.
Khăn Quàng, Sơn
Dầu, 1992
Hầu như tất cả các nam
hoạ sĩ, ai cũng có tranh vẽ thiếu nữ. Thái Tuấn không ngoại lệ. Người phụ nữ Việt
Nam đặc trưng có mặt trong tranh ông, lại nhiều hơn bao giờ hết. Họ thường xuất
hiện trực diện, một mình, với một vài nét phác, đôi mắt, cái miệng, mái tóc và
phần lớn không gian còn lại chừa cho màu sắc và tà áo cùng dáng dấp làm chủ.
Ông
chuộng màu xanh (yên bình, trang nghiêm), xám (tĩnh lặng, ôn hoà), và những màu
buồn, như trong bức này. Người thiếu nữ
mặc áo dài đứng trước gió (chân dung Khánh Ly), màu xám của lá và màu xanh của nền
tranh làm nổi bật màu trắng tinh khiết (gợi sự quyền uy) của chiếc áo và viền sọc
đen của chiếc khăn quàng.
Có vẻ như Thái Tuấn thích khăn quàng, tôi bắt gặp khăn
quàng hiện diện trong tranh ông, ít nhất là 9,10 bức. Chiếc khăn quàng bằng lụa
hay len là một vật làm dáng rất được ưa chuộng ở phương Tây được du nhập vào Việt
Nam. Trong nghệ thuật tạo hình, nó cũng là biểu tượng của sự thanh lịch, trữ tình
và nhất là sự linh động khi bay. Khí lạnh của Hà Nội, Thanh Hoá, Orléans (Pháp),
trong những nơi ông đã sống qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tranh ông. Sự giao
duyên văn hoá giữa Âu và Á thể hiện đều đặn như nét đẹp và buồn lãng mạn (Romanticism)
phảng phất đâu đó trong tranh biểu hiện (expressionism) của ông. Ông đã cô đọng
hết tinh túy Á Đông vào hội hoạ Tây Phương để hình thành một phong cách riêng và
trung thành với một lối vẽ trong suốt một đời cầm cọ, cho tới khi nhắm mắt.
Thiếu nữ,
1992
Em tôi đi
Màu son lên đôi môi
Khăn san bay
Lả lơi trên hai vai.
Màu son lên đôi môi
Khăn san bay
Lả lơi trên hai vai.
Gởi người em gái/Đoàn Chuẩn-Từ Linh
Chiếc khăn san trắng
buông hờ, quàng nhẹ bên vai ngiêng đã tạo nên một dáng ngồi khoe duyên trong tà
áo dài vàng nổi bật trên nền xanh của tranh vẽ. Tranh ông giản dị, người phụ nữ
của ông kín đáo, đơn sơ nhưng sang cả, thùy mị, đoan trang và sâu sắc. Cô gái
Hà Thành một thời, mặc áo dài, vai quàng khăn san, tóc vén mai cặp buông lơi sau
lưng, dáng mảnh mai trong mưa xuân đã là giấc mơ của nhiều chàng trai Hà Thành
hào hoa năm xưa. Ông đã thể hiện giấc mơ và những nét rất duyên của người con gái
đất ngàn năm văn vật ngày còn vang bóng. Ông cắt nghĩa cho lối hoạ thiếu nữ của
mình “Tôi chủ trương ít màu, ít nét. Khoảng trống bao la. Ðể nhờ chiếc áo dài
tuyệt đẹp nói hộ sự đoan trang về tâm hồn sự sâu sắc nên thơ của mọi người nữ
Việt Nam. Chiếc áo dài của ta, lạ lắm. Khi người đàn bà mặc vào, lúc đi lúc đứng
lúc ngồi, nằm, mọi đường nét của chiếc áo chuyển động tạo nên những đường nét
khác nhau vô cùng duyên dáng. Chẳng cần phải vẽ thêm màu mè, hoa lá.”
Trăng khi ẩn, khi hiện,
chiếc mũi là mùi hương, ông đem dấu đi, ông thường vẽ thiếu nữ không mũi, không
mùi, chiếc cổ thanh tân thay bằng khăn san. Trong khi vào thập niên 60, 70,
tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh Tây Phương thâm nhập vào không khí hội hoạ miền
Nam. Những Nguyên Khai, Đinh cường vẽ thiếu nữ với chiếc cổ dài quá khổ. Ảnh hưởng
của Amedeo Modigliani lan tràn khắp thế giới tạo hình. Các hoạ sĩ trẻ Sài Gòn đã
một thời tôn ông làm thần tượng(Hoạ sĩ Trịnh Cung tiết lộ), đến nỗi nét đặc trưng
của Nguyên Khai trong tranh thiếu nữ là chiếc cổ dài.
Thơ và nhạc ảnh hưởng
rất lớn trong tranh Thái Tuấn, trong hoạ có thơ, trong tranh có nhạc. Ông thích
thơ Jacques Prévert, Quách Thoại, nhạc Phạm Duy, nhạc Trịnh Công Sơn. Ông vẽ chân
dung của họ qua phong cách, hình ảnh của chính mình mà ông gọi là hoá thân.
Từng chiếc ba cây diêm
phựt cháy trong đêm
Cây thứ nhất để nhìn
trọn khuôn mặt em
Cây thứ hai để nhìn
đôi mắt em
Cây cuối cùng để
nhìn môi em
Và bóng tối dầy đặc
để anh nhớ lại tất cả
Khi ôm em trong tay.(Paris
at night-Jacques Prévert)
Hoá thân 2,
1982 (Trịnh Công Sơn)
Ngoài tranh thiếu nữ
và chân dung, ông còn vẽ tranh phong cảnh và tĩnh vật. Thế giới thiên nhiên và
tĩnh vật trong tranh ông thường dạt dào tâm cảm, lặng lẽ và u hoài. Vì chủ trương
đơn giản đến tận cùng, hình khối, âm ngữ là chính nên khoảng trống trong tranh
ông lại càng mênh mông hơn. Ông tâm sự trong một buổi phỏng vấn “Về lối vẽ của
tôi, tôi chú trọng đến tinh thần đơn giản, thanh đạm, muốn dùng rất ít đường
nét, rất ít màu sắc và ưa để những khoảng trống lớn trong tranh.”
Cuối cùng, ông cũng đã
lên đường ra đi về nơi những khoảng trống trong tranh ông. Những khoảng lặng chất
đầy thơ mộng và giấc mơ trần gian đó, giờ là chất “rỗng”, an nhiên và thảnh thơi
ở cõi tịnh. Nhân ngày giỗ ông, tôi xin thắp nén hương cho khói toả đến khoảng
chân trời xa ấy một lời cầu nguyện chân thành.
Trịnh Thanh Thủy
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.