Thư và đồng hồ Nguyễn
Khải gửi tặng Võ Phiến.
Nhân đọc lại bức
thư Nguyễn Khải gửi Võ Phiến năm 1989, tôi tìm đọc lại một vài tác phẩm của
Nguyễn Khải, tình cờ bắt gặp bài “tuỳ bút chính trị” ông viết năm 2006 với nhan
đề “Đi tìm cái tôi đã mất”, một bài viết thú vị, phản ánh tâm trạng bẽ
bàng của một nhà văn theo đảng suốt mấy chục năm, đến cuối đời, nhìn lại, thấy
tất cả đều đổ vỡ và đều bế tắc.
Theo cuốn Nhà
văn Việt Nam hiện đại do Hội nhà văn Việt Nam biên soạn và xuất bản vào
năm 1997, Nguyễn Khải sinh năm 1930; vào bộ đội từ năm 16 tuổi; thoạt đầu, làm
việc trong các tờ báo quân đội; sau, chuyển sang Hội nhà văn. Ông từng là uỷ
viên Ban chấp hành Hội nhà văn trong nhiều khoá, có thời gian là Phó tổng thư
ký. Trong quân đội, quân hàm cuối cùng của Nguyễn Khải là đại tá. Ông cũng là đại
biểu Quốc Hội khoá 7.
Về phương diện văn học, Nguyễn Khải được xem là một trong
những nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc trước năm 1975 cũng như trong cả nước sau năm 1975. Ông nhận được nhiều giải
thưởng, trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh, một giải thưởng được coi là quan
trọng và vinh dự nhất tại Việt Nam.
Một người như thế có
thể được xem là thành công, rất thành công. Vậy mà, trong bài viết “Đi tìm cái
tôi đã mất”, chỉ thấy toàn ngậm ngùi. Ngậm ngùi về chế độ. Và ngậm ngùi về sự
nghiệp của chính mình.
Về chế độ, Nguyễn Khải
gọi thẳng chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ “chuyên chế”, ở đó, đảng thì được
tuyệt đối hóa, giới lãnh đạo thì được thần thánh hóa, còn dân chúng, kể cả giới
văn nghệ sĩ, đều mất gần hết tự do; không ai được phép có những suy nghĩ riêng;
tất cả đều phải răm rắp đi theo những sự chỉ dẫn của đảng. Không những chuyên
chế, chế độ cộng sản còn đầy những nghịch lý: Một mặt, dù lúc nào cũng đề cao
vai trò của quần chúng, trên thực tế, họ lại rất khinh rẻ quần chúng; mặt khác,
dù lúc nào cũng lên án chủ nghĩa cá nhân, nhưng trên thực tế, ở đâu và thời nào
họ cũng có tệ nạn sùng bái cá nhân.
Xây dựng trên những sự nghịch lý như vậy,
các chế độ cộng sản không khác những lâu đài trên cát, không có chân móng gì cả,
bởi vậy, vào cuối thập niên 1980, khi luồng gió dân chủ tràn qua, tất cả đều đổ
sập một cách nhanh chóng mà không ai tiếc nuối gì cả.
Đi xa hơn việc phê
phán chế độ, Nguyễn Khải còn phê phán cả chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng
của chế độ cộng sản. Theo ông, cái chủ nghĩa ấy, với tham vọng cải tạo thế giới
và cải tạo con người, chỉ là những sự “hoang tưởng”, “nói cho vui”, thậm chí chỉ
là những sự tiên tri có tính chất “mê sảng, đồng cốt”. Nhiều người tin tưởng
vào những lời tiên tri ấy, về già, nhìn lại, chỉ thấy “một cái kho chứa đủ thứ
tạp nham chẳng có một chút giá trị gì”.
May mắn hơn các “đồng
chí” của mình ở Nga và Đông Âu, chế độ cộng sản ở Việt Nam chưa sụp đổ. Nhưng,
theo Nguyễn Khải, nó biến tướng một cách dữ dội. Điều đó dễ thấy nhất qua các
gương mặt của các thành phần cán bộ: Tất cả đều tha hoá. Nguyễn Khải nhận xét về
các cán bộ trong một tỉnh ông về thăm: “Mặt người nào cũng đầy những múi thịt,
sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn
thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc
ngồi sau mình”.
Chính trị như thế,
văn học cũng như thế. Chủ trương của cộng sản, qua các chuyến đi thực tế và các
buổi học tập chính trị, là tiêu diệt các giá trị cá nhân, các ý tưởng và cảm
xúc gắn liền với cá nhân. Để trong xã hội chỉ có một dòng tư tưởng chính thống
duy nhất. Nguyễn Khải nhận định: “Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì,
còn viết tiếp làm gì”?. Chính vì vậy, trong văn học, nhiều người bỏ nghề; một số
người tiếp tục nhưng cương quyết đòi cất lên một tiếng nói riêng thì bị cả chế
độ xúm vào đánh, tạo nên những “vụ án văn tự” thảm khốc. Những người khác, có lẽ
trong đó có cả Nguyễn Khải, sợ hãi viết theo “đúng luật lệ”.
Nhưng viết “đúng luật
lệ” là sao? Là, “chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người
được tôn vinh: Công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một
thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch”.
Hậu quả của việc viết
“đúng luật lệ” ấy là, về phía độc giả, càng ngày càng chán văn học; về phía tác
giả, họ cũng “tự chán mình”. Nhưng hậu quả tai hại nhất là giới văn nghệ sĩ bị
đánh mất cái tôi của mình. Thiếu cái tôi riêng tư và phong phú ấy, tất cả các
tác phẩm họ vắt óc ra để viết chỉ nhằm để phục vụ cho các mục tiêu chính trị nhất
thời. Khi các mục tiêu ấy qua đi, tác phẩm cũng biến mất. Tự nhìn lại sự nghiệp
sáng tác của mình, Nguyễn Khải không giấu được cảm giác ngậm ngùi: “Tôi cũng được
giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa,
thời thế đổi thay chắc chả ai còn nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời,
thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán
cân. Buồn nhỉ?”
Ừ. Thì buồn. Buồn
hơn nữa là việc giác ngộ của Nguyễn Khải khá muộn màng. Khi ông nhận thức ra tất
cả những sai lầm của chế độ cũng như những sai lầm trong việc viết lách theo
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa hời hợt, giả tạo và giả dối ấy, ông đã lớn tuổi,
không còn khả năng suy nghĩ và sáng tác được nữa. Ông viết: “Năm 70 tuổi tôi bắt
đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mươi lăm phút, chữ
nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt
đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ
viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi cũng nhận
ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết
thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng.”
Đọc bài “Đi tìm cái
tôi đã mất” của Nguyễn Khải, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai
điếu cho một giai đoạn minh hoạ” viết năm 1987 của Nguyễn Minh Châu. Cũng sinh
năm 1930 và cũng là đại tá trong quân đội như Nguyễn Khải. Cũng được đánh giá
là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa như Nguyễn Khải. Và, cuối cùng, cũng thất vọng ê chề về sự nghiệp văn học
của mình như Nguyễn Khải.
Chỉ có điều khác
Nguyễn Khải: Trong khi Nguyễn Khải chỉ ngậm ngùi, Nguyễn Minh Châu còn nghẹn
ngào, đôi khi còn uất hận khi nhìn lại những ràng buộc khắt nghiệt của chế độ đối
với giới văn nghệ sĩ. Ông nhận định: “mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối
với lối viết minh họa, văn học minh họa, với những cây bút chỉ quen với công việc
cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn”.
Hậu quả? “Thất thiệt
to lớn nhất của văn nghệ minh họa của ta là từ đấy những nhà văn đánh mất cái đầu
và những tác phẩm văn học đánh mất tính tư tưởng.” Rồi ông nghẹn ngào than:
“Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn
chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó
làm mình hèn.” Rồi ông kể: “Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám
đàn em:
‘Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!’, nói rồi
ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt
đổ vào lòng.”
Nghe nói “nhà văn
đàn anh” mà Nguyễn Minh Châu mới nhắc chính là Nguyễn Tuân. Cả mấy thế hệ cùng
rơi nước mắt khi viết lách cũng như khi nhìn lại sự nghiệp viết lách của mình.
Thảm.
Tiến sĩ Nguyễn Hưng
Quốc
Ông Nguyễn Khải "đánh mất cái tôi" vì hèn, vì mắc chứng bệnh "teo hòn dái", Hơn nữa ông đã Phạm Tội Ác - vì miếng cơm manh áo, vì uy tín cá nhân, đưa ngòi bút của mình quá đà, làm hại người khác. Nếu những người cầm bút ở VN tiếp tục hèn như Nguyễn Khải thì chúng ta còn phải đọc tâm sự "Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất" dài dài nhưng ở những dạng khác, dưới những cái tên khác.
ReplyDeleteCũng với cái ý đó, xin góp một bài thơ.
BỆNH NAN Y
Khám tổng quát
cho nhân viên một công ty
bác sĩ thấy hầu hết
mắc một chứng bệnh lạ kỳ
bệnh Teo Hòn Dái
Người bệnh ăn ngủ, ỉa đái
vẫn bình thường
không nhiễm trùng
không sốt
không nhức xương
không đau bắp thịt
đi đứng nằm ngồi
cũng giống như bao người khác
chỉ trong lúc làm ra và giới thiệu sản phẩm
mặt tái xanh
tim đập nhanh
mắt nhìn quanh lấm lét
Lúc ấy hòn dái teo đét
chỉ bằng hạt tiêu
trên người
mồ hôi vã ra như tắm
Công ty ấy
không sản xuất hàng công nghệ
không kinh doanh hàng ăn
mà chỉ làm ra tượng tranh
và nhiều mặt hàng
liên quan đến chữ viết
Đó chính là Hội Nhà Văn
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Trên đường giao lưu thơ văn
gặp các cây bút đến từ Việt Nam
các bạn tôi
bắt tay người này
khen chữ dùng sang cả
vỗ vai bác kia
khen tứ hay ý lạ
có sáng kiến làm mới thể thơ
Riêng tôi
gặp họ
chỉ thích nắn sờ
hai hòn dái
Phạm Đức Nhì