Trong
làn sóng phục hưng hàng “made in USA ”, các nhà sản xuất và phân phối
Mỹ đang đẩy nhanh cuộc cạnh tranh về giá thành với hàng Trung Cộng.
Theo
một cuộc thăm dò của Wall Street Journal gần đây, khoảng 76% người Mỹ
được hỏi đã cho rằng thế hệ con cái của họ sẽ không có cuộc sống tốt hơn. Người
Mỹ nhận thức nền kinh tế đang rủi ro hơn và có thể không bao giờ phục hồi trở
lại.
Năm
2002, một trong hai người Mỹ hy vọng thu nhập của họ sẽ tăng trong 5 năm tiếp
theo; vào năm 2013, con số này chỉ là một trong ba người. Thu nhập trung bình
thực tế của người Mỹ không tăng trong 20 năm qua; thu nhập tổng thể cũng đã trở
nên bất ổn định hơn.
Áp
lực từ suy thoái kinh tế càng khiến Chính phủ Mỹ mạnh mẽ hơn trong các chính
sách đẩy mạnh “sản xuất tại Mỹ” (made in USA ). Tổng thống Obama năm
2013 thông qua Bộ Thương mại và Lao động đã đưa ra thách thức mang tên “made in
USA”, với giải thưởng lên tới 40 triệu USD cho những ai có những đề xuất tốt
nhất nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài và tạo
việc làm. Kèm theo đó là nhiều chính sách khuyến khích các công ty Mỹ đưa việc
làm trở lại quê hương.
Với
vai trò là kênh tiêu thụ hàng hoá lớn, Wal-Mart đã cam kết dành thêm
250 tỷ USD trong vòng 10 năm tới cho các sản phẩm sản xuất tại Mỹ. Theo dự báo
của Công ty Tư vấn Boston Consulting, cam kết này sẽ tạo ra 1 triệu việc
làm tại Mỹ trong cùng thời gian.
Hãng
bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart đang tạo ra xấp xỉ 500 tỷ USD doanh thu hằng
năm, lớn hơn cả GDP của nước Áo, có số nhân viên bằng dân số thành phố Houston
và phục vụ hơn 200 triệu khách hàng mỗi tuần. Nói cách khác, những con số kinh
doanh của Wal-Mart có ảnh hưởng rất lớn đối với kinh tế Mỹ và chiến lược phục
hưng hàng hóa “made in USA“.
Trong
nhiều năm qua, Wal-Mart đã tìm nguồn cung ứng hàng hóa giá rẻ trên toàn cầu mà
chủ yếu là từ Trung Cộng nhằm giảm giá thành bán ra và tăng lợi nhuận. Vì thế,
tăng nguồn hàng sản xuất tại Mỹ buộc Wal-Mart phải tính toán rất kỹ nhằm giữ ưu
thế cạnh tranh. Mặc dù hãng bán lẻ này mua từ Trung Cộng với giá đơn vị rất rẻ,
nhưng nếu tính chung chi phí toàn hệ thống thì nó không còn quá rẻ nữa. Khi mua
hàng từ Trung Cộng, Wal-Mart thường mua số lượng nhiều hơn nhu cầu vì thời gian
giao hàng dài, vì thế chi phí tồn kho cũng rất cao.
Bill
Simon, Chủ tịch hội đồng quản trị của Wal-Mart sẽ thực hiện nhiều cuộc diễn
thuyết để kêu gọi nhiều nhà bán lẻ khác cùng đồng lòng thực hiện chương trình
này. Bill cho biết: “Người Mỹ có thể rất yêu nước Mỹ, nhưng họ sẽ mua hàng Trung
Cộng nếu chênh lệch giá hàng hóa Mỹ quá cao. Chúng tôi hy vọng các nhà phân
phối khác cùng chung tay để tạo ra “giá trị Mỹ” thật sự cho người tiêu dùng. Cũng
với tính toán như Wal-Mart, hãng điện tử General Electric năm ngoái đã đưa công
việc sản xuất máy giặt, tủ lạnh, và máy nước nóng từ Trung Cộng về tiểu bang Kentucky . Hãng này cũng
đầu tư 1 tỷ USD trong hai năm 2013 – 2014 để khôi phục lại ngành điện tử gia
dụng của Mỹ và hứa hẹn tạo ra 1.500 việc làm.
Theo
bảng xếp hạng chi phí sản xuất trên toàn thế giới của Boston Consulting Group
mới đây, Mỹ hiện đang ở vị trí thứ 7, theo sát sau Trung Cộng. Khi chi phí sản
xuất ở Trung Cộng, Brazil, Ấn Độ… liên tục tăng trong một thập niên nay, chi
phí tại Mỹ lại gần như không thay đổi nhờ mức lương lao động không tăng, chi
phí năng lượng giảm và khoa học kỹ thuật hiện đại giúp tăng năng suất.
Tờ Business
Week cho biết, mỗi USD chi phí sản xuất tại Mỹ hiện tương đương với 96 xu
sản xuất ở Trung Cộng. Với mức chênh lệch không đáng kể này, sau khi cộng thêm
chi phí vận chuyển hàng và nhiều yếu tố khác, đã có đến 300 doanh nghiệp Mỹ dời
các công xưởng từ nước ngoài trở về Mỹ.
Con
số này được Boston Consulting Group dự báo sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai
gần. Có 37% những công ty với doanh số 1 tỷ USD đang cân nhắc đưa các dây chuyền
sản xuất từ Trung Cộng về lại Mỹ trong thời gian tới.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.