Liên
quan đến chuyện "viết cho ai?", tôi nghĩ, có một vấn đề khác cũng cần
được đặt ra:
Nhà
văn là ai?
Câu
trả lời chắc chắn không đơn giản. Khái niệm nhà văn thay đổi theo thời gian:
ngày xưa, ở Việt Nam, bất kể ở những tài năng lớn hay nhỏ, tư cách nhà văn đều
bị chìm khuất, thật mờ nhạt, đằng sau tư cách của những ông quan, ông đồ, ông
cử hay ông tú. Khái niệm nhà văn cũng thay đổi theo thể loại: trong ý nghĩa
này, nhà văn chỉ là tên gọi chung cho nhiều loại người khác nhau, từ một nhà
thơ đến một nhà tiểu thuyết, một nhà tuỳ bút, một nhà viết kịch hoặc một nhà
phê bình và lý luận văn học. Khái niệm nhà văn còn thay đổi theo phương pháp
sáng tác người ta sử dụng: một nhà cổ điển, một nhà lãng mạn, một nhà hiện
thực, một nhà siêu thực, một nhà hiện đại chủ nghĩa hoặc một nhà hậu hiện đại
chủ nghĩa... Khái niệm nhà văn cũng thay đổi theo những mục tiêu mà người ta,
qua động tác viết, nhắm tới: có người viết để độc giả tiêu khiển, có người viết
để tuyên truyền cho một quan điểm và để kích động tâm lý của quần chúng, có
người viết để thoả mãn lòng say mê đối với chữ nghĩa, cũng có người viết để chỉ
gửi lòng mình vào thiên cổ, với hy vọng, may ra...
Lặn
sâu vào những sự đa dạng và phức tạp ấy để tìm hiểu vấn đề "nhà văn là
ai?" hẳn là một điều vô cùng thú vị. Tuy nhiên, trong bài này, tôi chọn
một góc độ khác không kém thú vị nhưng lại thực tế hơn: nhà văn không là ai?
Cái
không là cái vô hạn. Ở đây, tôi chỉ dừng lại ở một số nét chính.
Như,
nhà văn không phải là nhà báo, chẳng hạn.
Về
phương diện lý thuyết, sự phân biệt giữa nhà văn và nhà báo thật vô cùng đơn
giản. Nhà báo trước hết là tình nhân của các vấn đề thời sự, trong khi nhà văn,
trước hết, là tình nhân của nghệ thuật. Nhà báo đuổi theo các sự kiện, trong
khi nhà văn đuổi theo cái đẹp. Với nhà báo, chữ nghĩa là phương tiện; với nhà
văn, chữ nghĩa là cứu cánh. Tiêu chuẩn để đánh giá các nhà báo là tính chính
xác và tính kịp thời, trong khi tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá một nhà văn là
sự nhạy cảm và sự độc đáo. Đại khái thế.
Sự
khác biệt khá rõ ràng. Ít ai có thể lẫn lộn được. Có điều, ở Việt Nam thì khác.
Ranh giới giữa nhà văn và nhà báo, cho đến nay, vẫn rất nhập nhằng.
Đầu
tiên là nhập nhằng về phương diện sinh hoạt: cả nhà văn lẫn nhà báo đều sử dụng
một sân chơi chung: các tờ báo. Hầu hết các nhà văn chuyên nghiệp đều ít nhiều
là các nhà báo chuyên nghiệp. Nguồn thu nhập chính của họ không đến từ sách mà
là từ báo. Đăng trên báo thì gọi là bài báo; in lại dưới hình thức sách thì
thành ra chương sách. Tính chất thông tin và giải trí vốn là đặc trưng của báo
chí dần dần trở thành đặc trưng nổi bật của vô số các tác phẩm được gọi là văn
học, đặc biệt dưới nhãn phê bình và tiểu luận.
Hậu
quả của điều này là sự nhập nhằng trong phong cách viết lách của nhà văn và của
nhà báo: khi viết báo, người ta vẫn thích chút văn vẻ sang cả của văn chương,
và khi làm văn chương thật, người ta lại không dứt bỏ được thói vội vàng đến
cẩu thả của những người đưa tin.
Từ
hai sự nhập nhằng trên dẫn đến sự nhập nhằng khác, nhập nhằng trong danh xưng:
không hiếm người làm báo, hoàn toàn làm báo, thích mạo nhận là nhà văn và hay
lẩn quẩn vào sân chơi văn chương để giành ghế của người này và đòi cụng ly với
người khác. Tính chất xô bồ và nhếch nhác trong sinh hoạt văn học Việt Nam lâu
nay, trong cũng như ngoài nước, theo tôi, phần lớn xuất phát từ đám người mạo
danh ấy.
Trong
ba sự nhập nhằng trên, sự nhập nhằng đầu tiên hầu như không thể giải quyết được
trong tình hình kinh tế và xã hội hiện nay khi số người đọc sách quá ít và, hơn
nữa, quá thấp; sự nhập nhằng thứ ba rất khó giải quyết một phần vì không thể có
cá nhân hay tổ chức nào đủ quyền lực để ngăn chận tình trạng mạo danh; phần
khác, quan trọng hơn, vì chính giới nhà văn cũng chưa đủ sức để tạo hẳn cho
mình một diện mạo và một thế giá riêng, nhờ đó, có thể tự phân biệt mình và
những kẻ ăn theo. Nói cách khác, nguyên nhân chính của tình trạng xô bồ và
nhếch nhác trong sinh hoạt văn học Việt Nam lâu nay không phải chỉ do sự hiện
diện của những kẻ mạo danh mà còn vì, nếu không muốn nói chủ yếu là vì sự bất
tài của những kẻ được xem là nhà văn.
Chỉ
có sự nhập nhằng thứ hai là có thể giải quyết được. Chỉ cần chút nỗ lực và nhất
là, chút tự giác. Nỗ lực giữ ngòi bút của mình không bị trượt vào sự dễ dãi,
không bị cuốn theo thói quen, và nhất là, không bị biến thành thứ phương tiện
chỉ xài một lần rồi bị vứt bỏ; nỗ lực biến mỗi bài viết thành một công trình
kiến trúc hoàn chỉnh bằng ngôn ngữ. Nhưng muốn thế, người ta cần phải, trước
hết, tự giác về những đặc điểm và những chuẩn mực của văn chương để có thể, ít
nhất, biết được khi nào mình còn ở trong lãnh thổ của văn chương và khi nào thì
không; khi nào mình đang làm văn chương và khi nào mình chỉ thải ra chữ.
Cái
ý thức tự giác ấy thật ra là một tài năng: đó là sự nhạy cảm về độ, về ngưỡng,
về giới hạn, về sợi chỉ mong manh căng qua ranh giới giữa cái đẹp và cái đèm
đẹp. Cái ý thức tự giác ấy cũng là một biểu hiện của văn hoá: đó chính là ý
thức về giá trị và kỷ luật, ở đây chủ yếu là giá trị văn chương và kỷ luật của
nghề làm văn chương. Hai khía cạnh này có quan hệ chặt chẽ với nhau: ý niệm về
độ hay ngưỡng bao giờ cũng gắn liền với ý niệm về giá trị và kỷ luật. Bởi vậy,
tôi cho điều quan trọng nhất trong việc tách nhà văn ra khỏi nhà báo là các nhà
văn, chính các nhà văn, phải xây dựng và phải tôn trọng bảng giá trị và
kỷ luật của văn chương: họ có thể sống như một nhà báo và viết như một nhà báo,
nhưng khi đã có ý định làm văn chương thì phải quyết tâm làm văn chương thực
sự, phải chấp hành những kỷ luật của văn chương và phải nhắm tới những giá trị
văn chương chứ không phải bất cứ một thứ giá trị gì khác; nghĩa là, nói cách
khác, phải tích cực đẩy mạnh quá trình chuyên nghiệp hoá văn học.
Biện
pháp này, nghĩ cho cùng, cũng có thể áp dụng cho sự nhầm lẫn giữa tư cách nhà
văn và tư cách cán bộ.
Đúng
ra, đó không phải là một sự nhầm lẫn. Đó là một sự cố tình đồng nhất tư cách
nhà văn và tư cách cán bộ để tạo thành một thứ nhà-văn-cán-bộ như cái điều vẫn
phổ biến tại Việt Nam
từ năm 1945 đến nay. Sự đồng nhất này nằm trong âm mưu hành chính hoá và chính
trị hoá văn học, biến văn học thành một bộ phận trong guồng máy nhà nước, ở đó,
mỗi người cầm bút là một viên chức được trả lương và phải có nhiệm vụ chấp hành
mọi mệnh lệnh từ giới lãnh đạo.
Khi
văn hoá văn học bị khống chế bởi văn hoá hành chính, những cái được xem là giá
trị không phải là tinh thần sáng tạo mà là sự vâng phục; không phải sự độc đáo
mà là sự bình thường; không phải cá tính mà là ý thức tập thể; không phải cái
riêng mà là cái chung. Từ văn hoá hành chính, nhà văn xem việc thực hiện trách
nhiệm đối với tổ chức quan trọng hơn trách nhiệm đối với văn học, xem cái đẹp
không bằng cái có ích, xem việc trung thành đối với các quan điểm và chính sách
của đảng là một yêu cầu đạo đức cũng như xem tính hiệu quả trong việc phục vụ
cho các quan điểm và các chính sách ấy là thước đo tài năng.
Điều
đáng lưu ý là khi văn hoá văn học bị khống chế bởi văn hoá hành chính, không
phải chỉ có nhà-văn-cán-bộ mà còn có cả những độc-giả-cán-bộ.
Độc-giả-cán-bộ
ở đây không phải là những cán bộ đóng vai độc giả mà là những độc giả đóng vai
cán bộ, đọc trong tinh thần của một cán bộ, dù độc giả ấy, trên thực tế, không
phải là cán bộ và cũng không phải là người ăn lương của nhà nước, thậm chí, có
khi đã di tản hẳn ra nước ngoài.
Đọc
trong tinh thần cán bộ là đọc với tâm thế tự nguyện chấp hành kỷ luật và với ý
thức bảo vệ những tôn ti trật tự đang có. Một độc-giả-cán-bộ đánh giá tác phẩm
trước hết dựa theo cái tên của tác giả: nếu đó là tác phẩm của một người thuộc
giới lãnh đạo, họ sẽ đọc với thái độ cung kính của một thuộc hạ; nếu đó là tác
phẩm của một người được xã hội xếp vào bậc thầy, họ sẽ đọc với thái độ ngoan
ngoãn của một tên học trò; nếu đó là tác phẩm của một người không có chức vị gì
đáng kể, họ sẽ đọc với thái độ phê phán có khi khắc nghiệt, có khi suồng sã của
một kẻ bề trên hoặc ngang hàng; nếu đó là tác phẩm của một người bị xem là thù
nghịch, họ sẽ đọc với thái độ hoàn toàn phủ định và đầy ác ý.
Hơn
nữa, khi đọc, điều một độc-giả-cán-bộ cần tìm kiếm nhất bao giờ cũng sự tái
khẳng định những điều vốn đã được xem là chân lý bất biến. Họ không bao giờ cảm
thấy chán khi đọc đi đọc lại những trích dẫn trùng lặp từ các tác phẩm được gọi
là kinh điển hoặc từ các loại sách báo phổ thông. Ngược lại, điều làm họ dị ứng
nhất chính là những cái mới lạ: trong tâm lý của một cán bộ, cái mới lạ bao giờ
cũng hàm chứa một nguy cơ gây đảo lộn cái trật tự hiện có và cũng chính là cái
trật tự họ muốn bảo vệ.
Xuất
phát từ văn hoá chính trị, sáng tác là để tập hợp lực lượng, hay nói như ai đó,
một cách "gọi đàn". Điều người cầm bút quan tâm nhất là được đồng
tình, đồng ý và được chấp nhận. Muốn thế, người ta thường tránh xa mọi sự thách
đố. Người ta phải tự mài mòn cá tính của mình, tự bóp chết những giấc mơ tìm
tòi và thử nghiệm. Văn hoá chính trị bao giờ cũng là văn hoá của đại chúng: nó
đề cao những cái chung chung và những cái tầm tầm. Nó xem phản ứng của quần
chúng như một thứ nhiệt kế văn học: tác phẩm được quần chúng hiểu, thích và nhớ
là thành công; ngược lại, là thất bại, hoặc thất bại về nghệ thuật (chưa đủ
trình độ để chinh phục người đọc), hoặc thất bại về đạo đức (cố tình làm ra vẻ
cao vĩ để dối gạt hay hù doạ quần chúng).
Tự
bản chất, một thứ văn hoá như thế rất xa lạ với văn hoá văn học.
Khác
với các lãnh vực khác, văn học là thế giới của sự riêng tây. Văn học không làm
người ta tụ lại với nhau mà làm cho mỗi người tách ra một cõi riêng. Từ cả việc
viết lẫn việc đọc, người ta đều một mình. Chức năng cao cả nhất của văn học,
theo tôi, là nuôi dưỡng cái "một mình" ấy: một mình mình đối diện với
chính mình; một mình mình lắng nghe những tiếng thì thầm của ngôn ngữ; một mình
mình đi vào thế giới mênh mông vô cùng vô tận của sự sáng tạo. Trong những cuộc
hành trình một mình đi vào cõi riêng tây như thế, chỉ có những khám phá mới mẻ
hoặc những cách thể hiện mới mẻ mới thực sự có ích: chúng làm cuộc hành trình
đẹp hơn và làm cõi riêng giàu có hơn.
Chính
vì vậy, với tư cách là một công việc sáng tạo, mọi cái viết chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nó thách đố lại với thói quen và định kiến, khi nó gây hấn với mọi
lối mòn và mọi quy ước. Một nhà văn lớn là người, bằng tác phẩm của mình, góp
phần mở ra những biên giới mới hoặc đưa ra định nghĩa mới cho các khái niệm văn
học hoặc thể loại văn học. Cũng chính vì vậy, văn học có thể đi liền với cách
mạng nhưng lại rất khó song hành với chính trị: khi các lực lượng cách mạng đã
giành được chính quyền thì cũng là lúc văn học bị lâm nguy.
Nói
tóm lại, trong phạm vi bài này, tôi chưa dám khẳng định nhà văn là ai, nhưng
tôi biết chắc một điều: dù là ai đi nữa thì nhà văn, ít nhất là lúc cầm bút làm
văn chương, nhất định không phải là một nhà báo, kẻ chỉ xem chữ nghĩa như một
phương tiện để rượt đuổi theo các sự kiện không ngừng diễn ra và không ngừng bị
vùi lấp. Nhà văn cũng nhất thiết không phải là một cán bộ, kẻ chỉ biết phục
tùng; một nhà chính trị, kẻ chơi trò mị dân, chỉ thích đầu tư trên cái vốn
chung và cũ của tập thể; một nhân viên xã hội, kẻ đầy tinh thần trách nhiệm đối
với xã hội và vì tinh thần trách nhiệm ấy, sẵn sàng hy sinh cả nghệ thuật.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
*****
Oct
29, 2014
Đó
là con đường rất ít tính sáng tạo. Người cầm bút chỉ có một con đường để lựa
chọn: viết cho những độc giả của mình. Nhưng những độc giả ấy ở đâu? Không ai
biết chắc cả. Họ không có sẵn như một lực lượng. Họ rải rác ...
Liên
quan đến chuyện "viết cho ai?", tôi nghĩ, có một vấn đề khác cũng cần
được đặt ra:
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.