Càng
ngày càng khó tìm được những “bài hát Việt” có tuổi thọ trên 5 năm
Trong
làng V-pop, thậm chí có những ca khúc chưa kịp mừng thôi nôi đã thôi...rồi!
Nếu
xét về trình độ học thuật âm nhạc, phải công nhận rằng các thế hệ càng về sau
càng được học nhiều hơn, phong phú hơn những thế hệ ông, cha, anh đi trước. Các
tác giả của “Màu thời gian”, “Thiên thai”, “Con thuyền không bến”, “Cô láng
giềng”, “Mộ khúc”, “Hạ trắng”, “Niệm khúc cuối”, “Khát vọng”, “Sợi nhớ, sợi
thương”... làm sao có cơ hội trau dồi nhạc lý, học tập mẹo luật sáng tác bằng
các sinh viên, học viên trường nhạc ngày nay được. Thế nhưng họ có những sáng
tác sống 20, 30, thậm chí đến 70 năm (và còn có thể hơn nữa) trong lòng người
yêu nhạc Việt qua các thế hệ.
Không khó để nhận ra vấn đề nằm ở đâu. Những ca
khúc “trường thọ” luôn mang những nét độc sáng riêng của tác giả, nghĩa là tuy
có thể kế thừa một vài yếu tố nhưng không y chang, sao chép, cóp nhặt từ sản
phẩm nào khác. Những ca khúc “yểu mệnh” thường được cắt, ráp một cách thô kệch,
thiếu sáng tạo riêng để thành “anh chị em song sinh” với một hoặc nhiều sản phẩm
khác đã có trước đó.
Nếu
có thời giờ (đã có nhiều người bỏ giờ làm việc này) lắng nghe, đảo quanh một
vòng các ca khúc đang được “giới trẻ yêu thích” (người ta vẫn thích đổ tội cho
giới trẻ), được phổ biến trên các đài, trang mạng internet hiện nay chúng ta sẽ
gặp rất nhiều ca khúc Việt thuộc loại “người lạ nhưng trông quen lắm!”. Người
viết ra chúng không ngại ngùng “mượn đỡ” những giai điệu, nhạc nền phối âm,
đoạn intro, gian tấu, coda,...từ những sáng tác trong nhạc Hàn, Hoa, Nhật, Mỹ,
Pháp,...Người phổ biến chúng (ca sĩ biểu diễn, các nhà đài, nhà sản xuất,
truyền thông) không chút xấu hổ khi thu lợi nhuận từ những sản phẩm hàng nhái
đó. Họ đồng nghĩa việc sáng tác nhạc với xào nấu thức ăn! Không còn thấy đâu
ranh giới giữa khái niệm kế thừa và nhân bản (trong sản xuất cừu Dolly). Ca
khúc rock thuộc hàng kinh điển, “Stairway to heaven” đã làm say mê nhiều thế hệ
kể từ khi được phát hành vào năm 1971.
Không kể đến việc thanh chấp bản quyền
giữa tác giả của nó, Jimmy Page với toàn ban nhạc Led Zeppelin (mà Page đã từng
là một thành viên) thì khó có ai biết được ca khúc này đã kế thừa từ nhiều tác
phẩm cổ điển khác: giai điệu mang một chút của “Giao hưởng số 8” (“Không hoàn
thành”, Schubert); phần đệm mang âm hưởng của “Giao hưởng số 1” (Mahler); và
nhiều âm hình tiết tấu khác trích từ các tác phẩm của Beethoven, Bizet, thậm
chí của Glenn Miller. Tuy nhiên sự kế thừa ấy mang đầy tính nghệ thuật và độc
sáng đến nỗi người nghe không còn nhận ra nguyên gốc. Tác giả đã đóng góp phần
sáng tạo đáng kể của riêng mình. Một ca khúc thiếu nhi rất phổ biến trên thế
giới đó là “Twinkle twinkle little Star”.
Ca khúc này thật ra được Jane Taylor
viết lời Anh và phổ biến vào năm 1806, dựa trên giai điệu của một bài ca Pháp
(không rõ tác giả) mang tên “Ah! Vous dirais-je, Maman” có từ năm 1761. Khi
Mozart đến Paris và ở đó trong thời gian từ tháng Tư đến tháng Chín năm 1778,
ông đã lấy toàn bộ giai điệu của bài hát này làm chủ đề cho một trong các sáng
tác theo hình thức biến tấu của ông và đặt tên là “Variations” (gồm một loạt
các biến tấu cho piano được đánh số từ K.265 đến K.300e). Biến tấu này hay đến
nỗi người đời sau cứ tưởng rằng tác giả của “Twinkle twinkle little Star” là
Mozart. Nhà soạn nhạc người Áo này đã cho bài ca vô danh của Pháp một cuộc đời
mới!
Không
lâu sau, vào năm 1791, trong một lần đến thăm và làm việc ở Anh, Joseph Haydn
lại sử dụng nguyên vẹn giai điệu dễ thương này trong chương Andante của giao
hưởng nổi tiếng của mình: “Surprise” (Ngạc nhiên; tức giao hưởng số 94). Nhiều
người tưởng rằng chàng trai Mozart (lúc đó 22 tuổi) là hậu sinh, cảm hứng
từ tác phẩm của vị tiền bối 59 tuổi! Cả hai đã góp phần sáng tạo tuyệt vời và
bác học đến nỗi người nghe không còn nhớ đến nguồn gốc đơn sơ của giai điệu chủ
đề cũng như chẳng ai than phiền Mozart và Haydn đạo nhạc cả!
Mô
phỏng (imitation) là một trong những kỹ thuật sáng tác thường được sử dụng để
phát triển một chủ đề âm nhạc. Trong ngôn ngữ thường ngày, “imitation” còn có
nghĩa là ”bắt chước”. Như vậy, “bắt chước” có hai mức độ: tiêu cực (được hiểu
như sao chép, quay cóp) và tích cực (được hiểu như mô phỏng). Ranh giới giữa
hai mức độ này là phần đóng góp của người thừa kế. Đã đành rằng trong nhiều
lãnh vực, cách riêng âm nhạc, luôn cần phải có sự kế thừa. Vấn đề là chúng ta
kế thừa như một người góp phần sáng tạo hay như....một kẻ cướp. Nếu “sáng tác”
của mình có những yếu tố được lấy ra từ đâu đó mà chúng ta không nói rõ nguồn
gốc, việc làm ấy vi phạm đạo đức (nghề nghiệp) và được gọi là đạo nhạc.
Trong
ca khúc “Ave Maria” nổi tiếng của mình, Charles Gounod ghi rõ trong phần tác
giả: Bach – Gounod. Có người (có học nhiều về âm nhạc) đã vội vàng đem so sánh
một cách khiên cưỡng với một trường hợp đạo phần nhạc nền trong sáng tác không
nói rõ nguồn gốc của một bạn trẻ (ít học hơn)! Nếu chúng ta sử dụng tác phẩm của
người khác mà không xin phép, như vậy là vi phạm pháp luật (sở hữu trí tuệ) và
thường được hiểu là xâm phạm bản quyền. Hiện nay trong nhạc thị trường Việt Nam (mà nhiều
người vẫn gọi tắt một cách vô ý thức là “nhạc Việt)” có không ít “sản phẩm”
(không nên gọi là tác phẩm) được hình thành từ sự kết hợp cả hai loại vi phạm
trên đây, chúng ta có thể gọi hiện tượng này là cướp nhạc. Cần phải tìm một tên
gọi cho nghề mới này (nếu coi ăn cướp cũng là một nghề) thay vì gọi đổ đồng là
“nhạc sĩ”. Đó là một việc làm sòng phẳng, tránh oan ức cho những kẻ sĩ của âm
nhạc Việt Nam .
Nếu
thích một ca khúc ngoại quốc nào đó, chúng ta có thể lấy một vài ý nhạc (giai
điệu, tiết tấu,...) để mô phỏng và biến tấu theo cách riêng của mình chứ đừng
chỉ đơn giản là lấy nguyên của họ rồi thêm phần “có cũng được mà không có cũng
chẳng chết ai” của mình vào. Cũng có những trường hợp người sáng tác sau lấy
nguyên xi một giai điệu nào đó của tác giả đi trước nhưng phần nguyên xi ấy
chiếm tỷ lệ không đáng kể, chỉ thoáng qua nhằm diễn tả một ý tưởng nào đó. Có
thể kể đến trường hợp của bản ouverture 1812 của Tchaikovsky. Trong đó, tác giả
sử dụng nguyên xi giai điệu chủ đề của bản quốc ca Pháp, La Marseillaise
(Rouget de Lisle, 1792) nhằm diễn tả sự thua trận của đội quân Pháp do Napoléon
dẫn đầu trong trận chiến với tướng Koutouzov của Nga. Đối với người có học (kỹ
thuật sáng tác), không khó gì khi lấy cảm hứng từ một tác phẩm nào đó, một giai
điệu đẹp nào đó để tạo nên sáng tác mang dấu ấn riêng của mình. Họ có
nhiều phương tiện để làm như thủ pháp mô phỏng, nới rộng/ thu hẹp nhạc đề, biến
tấu,v.v... Đối với kẻ ít (hoặc không) học thì chỉ còn cách “đánh bài lờ” về tác
giả gốc.
Chúng
ta sống trong môi trường âm nhạc (trong cũng như ngoài nước) với nhiều thành
quả có trước. Việc chịu ảnh hưởng (có khi là ngoài ý muốn) từ các tác phẩm âm
nhạc đến sáng tác của mình là điều tự nhiên, dễ hiểu. Cũng có khi trong tác
phẩm của người khác có điều hay, làm chúng ta thích, tâm đắc. Chúng ta có
thể sử dụng chúng như chất xúc tác, gợi nên cảm hứng sáng tạo để góp phần của
mình vào khiến cho từ cùng một chất liệu có thể sinh ra một sản phẩm âm nhạc
mới đáng trân trọng cho xã hội. Điều đó rất đáng khuyến khích. Việc bắt chước
(mô phỏng) như vậy mang tính tích cực. Khổ nỗi muốn có được phần của mình đóng góp
vào, chúng ta không thể lười biếng, thiếu kiến thức (từ trường lớp hoặc từ kinh
nghiệm hoạt động) về âm nhạc được. Nếu không có điều kiện đó, việc bắt chước
của chúng ta mang tính tiêu cực như loài vẹt và sản phẩm của chúng ta làm ra
chỉ là một món hàng bị đánh cắp hoặc là hàng nhái.
Ngày
càng có nhiều người vì lợi ích vật chất trước mắt nên đã góp phần đẩy mạnh,
tâng bốc loại âm nhạc bắt chước, sao chép, cóp nhặt để làm đầy thêm cho “kho
hàng” nhạc thảm họa Việt Nam
(bên cạnh các loại nhạc chế, nhạc té ghế,...). Họ cứ thích dùng những mỹ từ để
mặc cho hình thức nhạc “bắt chước như vẹt” này, thậm chí gọi gộp luôn là “Nhạc
Việt” thay vì nên gọi là: Nhạc...Vẹt!
*****
Aug
25, 2013
Thật
ra, giọng Đàm Vĩnh Hưng nửa Nam
nửa Bắc, cách thức hát cũng không có và lối hát cũng vậy. Hồi xưa, Đàm Vĩnh
Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sĩ loại C hát lót chứ không được vào hạng ca
sĩ chính của phòng trà ...
Oct
03, 2014
Tôi
thật sự không biết ông khách nào khi ấy ngồi trước mặt Thu Minh, cũng như người
phụ nữ đi cùng ông khách đó nghĩ gì, chỉ biết là sao tôi thấy ngượng quá chừng
trước sự trơ trẽn đến vậy của người ca sĩ trên sân khấu!
Sep
17, 2013
Nhạc
jazz và cổ điển có rất ít, nhưng điều này cũng dễ hiểu vì những thể loại này
đòi hỏi các ca sĩ phải có kỹ năng rất cao và phải được đào tạo bài bản. Tôi
thấy rằng trong trường học ở Việt Nam cần phải tăng cường
giảng ...
Aug
13, 2014
Phản
ứng về việc ông Việt Dzũng ra đi, hôm 21/12, nhạc sỹ Nam Lộc, một thành viên từ
Trung tâm Asia nhận xét ông Dzũng là 'một thiên tài', một người sống và làm
việc cần mẫn, chăm chỉ suốt đời 'vì lý tưởng tự do cho cộng ...
Aug
26, 2013
Một
cô bé 13 tuổi nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại vì trình bày rất
thành công các ca khúc từng khiến cho hai nhạc sĩ tại Việt Nam bị bỏ tù về
tội “tuyên truyền chống nhà nước”. Cô Vivian Huỳnh thời gian gần ...
Nov
14, 2011
Nhưng
không, người nghệ sĩ mà chúng tôi muốn nói đến trong bài viết này là một thiếu
nữ Việt Nam trẻ đẹp, sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ sau 1975 trong một gia đình tỵ
nạn, từng làm nghề đánh cá ở một làng chài lưới tại ...
Jun
20, 2011
Theo
tôi, ngoài tính mòn, đơn điệu, boléro có ưu điểm là rất thích hợp với giọng nam
của các ca sĩ Sài Gòn. Các nhạc sĩ như Lam Phương, Hồ Đình Phương, Thanh Sơn...
là những cái tên được biết đến từ "nhạc sến".
Sau 39 năm phỏng dế miền Nam , các nhạc phẩm nghe được nghiã là được đông đảo người nghe đón nhận bây giờ & năm , mười năm sau nữa có lẽ không nhiều hơn 10 ngón tay .Các ca sĩ có hạng tại VN bây giờ nếu chỉ rặt hát nhạc được sáng tác sau 75 thì chắc chắn chỉ có nước đi ăn xin mà sống .Kinh tế VN má cứ phát triển theo chủ nghĩa xã hội thì cả nước cứ phải ăn bánh vẽ suốt đời , tô phở tàu bay phải quý hơn độc lập tự do trăm lần .
ReplyDelete