Trong bài
phỏng vấn do Trà Mi thực hiện, Nguyễn Phương Uyên, cô gái 21 tuổi được nhiều
người xem như một “biểu tượng” của lòng can đảm và của tuổi trẻ, nêu lên một ý
nguyện, đồng thời cũng là một tham vọng của em: “Tôi không muốn mắc phải
căn bệnh rất khó trị ở các thanh niên cùng tuổi tôi. Tôi muốn làm một bài thuốc
để thanh niên Việt Nam nhìn thấy mà làm hết mình, ‘cháy’ hết mình, không còn bị
vô cảm và sợ hãi vốn đã bị tiêm nhiễm ngay từ bé.”
Tôi
không biết hiệu quả của “bài thuốc” ấy thế nào. Nhưng tôi nghĩ Phương Uyên đã
bắt đúng căn bệnh kép không phải chỉ của giới trẻ mà còn của người Việt Nam
nói chung lâu nay: bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi.
Bệnh
sợ hãi, thật ra, là một bệnh lâu đời. Chế độ phong kiến, ở đâu cũng vậy, bao
giờ cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng chính: sự sùng bái và sự sợ hãi.
Sự sùng bái được xây dựng trên hai nền tảng chính: tư tưởng thần quyền (nòng
cốt là tư tưởng thiên mệnh) và các nghi lễ đầy tính đẳng cấp trong xã hội. Sự
sợ hãi được tạo thành và được duy trì chủ yếu bằng một biện pháp chính: khủng
bố. Trong các tội trạng, tội nặng nhất là tội phản nghịch. Hình phạt dành cho
tội này thường là tử hình, có khi không phải tử hình một cá nhân mà còn tử hình
nguyên cả một dòng họ (tru di tam tộc). Tử hình không phải chỉ nhắm đến việc
giết chết tội nhân. Mà còn nhắm đến việc giết chết mọi ý đồ phản nghịch của
những người còn sống bằng cách khiến họ phải sợ hãi. Do đó, người ta bày ra đủ
thứ kiểu giết người, từ kiểu chặt đầu, treo cổ đến kiểu cho voi giày, ngựa xé,
ném vào vạc dầu sôi, tùng xẻo, v.v.. Bởi vậy, chuyện ngày xưa dân chúng thường
xuyên sống trong sợ hãi là điều dễ hiểu.
Sau
này, chế độ cộng sản tiếp tục duy trì sự sợ hãi ấy bằng các trại cải tạo và nhà
tù, hơn nữa, bằng chế độ lý lịch: Con cháu những người bị xem là phản động trở
thành một thứ con ghẻ, thường xuyên bị nghi kị và kỳ thị, có thời gian, lại là
thời gian khá dài, còn không được nhận vào đại học. Bây giờ, do sự phát triển
của kinh tế thị trường, chế độ lý lịch ấy đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, hệ thống
nhà tù thì vẫn dày đặc. Mà không cần nhà tù, chỉ cần sự hiện diện của công an,
mọi người đã khiếp sợ.
Tất
cả những sự khủng bố và đe dọa ấy khiến mọi người nếu không run sợ thì ít nhất
cũng thu mình lại, né tránh mọi đụng chạm đến công an hoặc rộng hơn, đến chính
trị, từ đó, làm nảy sinh ra một thứ bệnh khác: bệnh vô cảm.
Nếu
sợ hãi là một căn bệnh lâu đời, vô cảm lại là một căn bệnh rất mới. Trước, hầu
như không ai nói người Việt vô cảm bao giờ. Thậm chí, ngược lại, hầu như ai
cũng cho người Việt sống bằng tình cảm nhiều hơn lý trí. Với tư cách cá nhân,
người ta quan tâm đến nhau; láng giềng quan tâm đến nhau; cả làng quan tâm đến
nhau. Chuyện một người biến thành chuyện của cả tập thể. Sự quan tâm lớn đến độ
lấn át cả sự riêng tư của từng cá nhân một.
Vậy
mà, những năm gần đây, hầu như bất cứ người nào để ý đến xã hội Việt Nam một chút,
cũng đều nhận thấy ngay một hiện tượng: người ta đối xử với nhau thật vô cảm.
Ngoài
đường, nhìn người khác bị cướp giật, hầu như mọi người đều dửng dưng; thấy có
ai đó bị tai nạn nằm giãy đành đạch, phần lớn vẫn đứng trố mắt nhìn. Trồng trọt
hay buôn bán thực phẩm, biết việc sử dụng nhiều hóa chất có thể gây nhiễm độc
hay bệnh hoạn cho xã hội, người ta vẫn mặc kệ. Làm các dịch vụ du lịch, biết
việc chụp giật hay lừa đảo có thể gây ấn tượng xấu cho cả đất nước, khiến du
khách ngoại quốc khinh bỉ và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, người ta vẫn
bất chấp.
Chưa
hết.
Hiện
tượng con cái đánh đập hoặc đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà càng lúc càng phổ biến.
Chỉ giận hờn hay cãi cọ nhau một chút là học sinh, có khi là nữ sinh, đã đánh
nhau một cách tàn nhẫn. Để cướp một chiếc nhẫn, thay vì trấn lột, người ta nghĩ
ra một biện pháp cực nhanh: chặt đứt nguyên cả cánh tay. Ăn trộm một con chó
cũng bị cả làng xúm vào đánh chết.
Dù
sao, ở trên cũng là những chuyện... nhỏ.
Lớn
hơn là những chuyện liên quan đến số phận của cả đất nước. Việt Nam bị ô nhiễm
trầm trọng ư? Người ta nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Nạn
tham nhũng hoành hành, các công ty quốc doanh thi nhau phá sản để lại những núi
nợ nần không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ sau này nữa ư? Người ta
cũng nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!”
Quan
trọng nhất là chuyện chủ quyền. Hầu như ai cũng biết Trung Quốc đang toan tính
cướp biển và cướp đảo Việt Nam ,
đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống của nhiều ngư dân Việt Nam , chi phối tình hình chính trị nội bộ của
Việt Nam .
Ai cũng biết vậy. Nhưng phần lớn đều nhún vai: “Làm gì được?”. Rồi thôi.
Người
Việt vẫn thường tự hào về truyền thống yêu nước, bất khuất và anh dũng của
mình. Nhưng thời gian gần đây, nhìn đâu cũng thấy những cái nhún vai bất cần,
kiểu sống chết mặc bay như thế.
Tại
sao?
Lý
do, thật ra, khá đơn giản. Một phần vì sợ, như đã nói ở trên. Phần khác, vì đó
là chính sách của nhà cầm quyền. Dưới mọi hình thức tuyên truyền, nhà cầm quyền
chỉ muốn mọi người vô cảm. Bày tỏ sự quan tâm của mình đối với chủ quyền của
đất nước dưới hình thức biểu tình thì bị đạp vào mặt hay bắt thảy vào các nhà
tù; dưới hình thức bài viết trên các blog thì bị vu cho tội… trốn thuế.
Trước,
mọi nhà độc tài đều duy trì chế độ của mình trên sự sợ hãi của người dân; sau
này, ngoài sự sợ hãi, người ta sử dụng một biện pháp nữa: làm cho mọi người trở
thành vô cảm.
Tôi
không biết hiệu quả của bài thuốc trị sự vô cảm và sự sợ hãi của Phương Uyên
như thế nào. Nhưng ít nhất, nhìn ánh mắt, dáng dứng và những câu phát biểu của
em trước tòa, cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm, và đặc biệt, nhìn cả trăm người
từ khắp nơi đến tham dự phiên tòa phúc thẩm của em, tôi nghĩ, ít nhất cũng có
nhiều người đã vượt qua được hai căn bệnh hiểm nghèo ấy.
Nguyễn
Hưng Quốc
Âm mưu diệt người Việt trên đất Việt của Cộng Sản ... |
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.