Chuyên
gia Nga nhận định trong 4 -5 năm tới, Trung Quốc không có khả năng tiến hành
chiến tranh mà chỉ sử dụng đội quân tàu cá, du lịch, ngư chính, hải giám làm
chủ công để lấn chiếm, tranh đoạt...
Năm
2012 một sự kiện lớn trong chiến lược hải dương của Trung Quốc đã hình thành,
đó là việc thử nghiệm thành công tàu sân bay Liêu Ninh. Sự kiện này gây sự chú
ý và bàn luận khắp thế giới. Cùng với việc phục sinh một tàu sân bay cũ của
Liên Xô, Trung Quốc tăng cường tuyên bố chủ quyền của mình trên hầu hết Biển Đông,
nhưng lực lượng tiên phong chủ lực nhằm thực hiện mục đích thống trị vùng nước
này lại không nằm trong hải quân.
Vài
tháng gần đây, Trung Quốc đã thực hiện một kế hoạch tham vọng và nguy hiểm hơn
nhiều so với các tàu chiến khổng lồ đang hiện diện trên Biển Đông. Kế hoạch thể
hiện một nỗ lực giành giật quyền làm chủ trên những vùng nước và hải đảo tranh
chấp – sử dụng tàu du lịch với hàng nghìn du khách, được chính quyền Trung Quốc
cho phép thực hiện các chuyến du lịch trên các hòn đảo đang có những đòi hỏi về
chủ quyền của các nước láng giềng. Sử dụng tàu du lịch có tải trọng lớn và rất
nhiều các loại tàu khác, Trung Quốc đang thực hiện mưu đồ khẳng định chủ quyền
của mình tại những vùng tranh chấp trên Biển Đông.
Tàu
sân bay Liêu Ninh.
Hàng
loạt sự cố xảy ra trên Biển Đông, với sự tham gia của 'đội quân' hùng hậu gồm
tàu cá trọng tải lớn, tàu ngư chính và hải giám, cùng với những lời tuyên bố
quyết liệt và mang tính khiêu khích từ tháng 7.2010 đến nay. Sau hàng loạt va
chạm với Nhật Bản, Philipines và các nước khác đã dẫn đến việc ngoại trưởng Mỹ
Hilary Clinton phải kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình.
Trung
Quốc đáp trả bằng cách liên tiếp gia tăng các hoạt động của các cơ quan điều
hành biển cấp nhà nước và tung ra nhiều thủ đoạn khác. Họ đã liên kết phối hợp
cơ quan cảnh sát biển thuộc Bộ công an và các cơ quan điều hành địa phương,
trước hết là cơ quan do họ dựng lên một cơ quan hành chính (thành phố Tam Sa)
và những cơ quan điều hành bờ biển gần với đảo Hải Nam , đồng thời người Trung Quốc
tăng cường phát triển lực lượng hải quân và không quân hải quân làm phương tiện
răn đe và sẵn sàng cho cuộc xung đột không chủ ý.
Chiến thuật 'biển tàu cá'
Hàng
không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc lộ diện lôi cuốn được sự chú ý của tất cả
thế giới. Người ta nghĩ đến những tập đoàn không quân hải quân tấn công sẽ xuất
hiện trên Biển Đông và Ấn Độ Dương, đến những cuộc chiến tranh chớp nhoáng và
tổng lực. Nhưng trong tương lai gần, tàu sân bay Liêu Ninh sẽ chỉ làm nhiệm vụ
đơn thuần là phục vụ huấn luyện không quân hải quân, chứ không phải là một đơn
vị chiến đấu trong một lực lượng hải quân viễn chinh. Tuy nhiên lực lượng cảnh
sát biển với rất nhiều phương án sử dụng và thể hiện quyền lực trên biển lại là
một vấn đề hoàn toàn khác với những nguy cơ lớn hơn rất nhiều.
Sự
phát triển của lực lượng này được phóng viên tờ báo The Los Angeles Times khẳng
định. Ví dụ, từ năm 2000 lực lượng quân sự Trung Quốc đã chuyển bàn giao cho
các cơ quan hành pháp biển 11 tàu quân sự nhằm tăng cường năng lực giám sát.
Bản thân lực lượng Hải giám Trung Quốc cũng tự đóng 13 chiếc và sẽ tăng cường
lên đến 36 chiếc đóng mới.
Lực
lượng ngư chính của Trung Quốc cũng tiếp nhận các tàu quân sự, có sân đậu cho
máy bay trực thăng. Các tàu ngư chính, hải giám đã nhanh chóng được đưa vào sử
dụng và có mặt liên tục trên Biển Đông. Lực lượng hải quân hạm đội Thái Bình
Dương của Mỹ xác định cho đến nay tính từ năm 2008, số lượng các tàu tuần biển
của cảnh sát biển Trung Quốc đã tăng gấp 3 lần.
Các
tàu đánh cá Trung Quốc tại đảo Hải Nam , so với người trên thuyền thấy
rõ được các tàu cá của Trung Quốc có lượng giãn nước khá lớn. Chuyên gia Hải
quân Mỹ, ông James Funnell đã viết trong một bài đăng trên tờ Times đã nhận
xét: Các tàu tuần biển Trung Quốc không có mục đích gì khác ngoài mục đích uy
hiếp, đe dọa các nước láng giềng trên Biển Đông, buộc họ phải tuân thủ và phục
tùng những yêu sách ngang ngược, phi lý của đại lục. Họ sẵn sàng với những hành
động cực đoan như cắt cáp tàu thăm dò hải dương của tàu khoa học Việt Nam , tấn công
đe dọa các tàu đánh cá có lượng giãn nước nhỏ của các nước láng giềng.
Các
tàu cá Trung Quốc có lượng giãn nước lớn cũng sẵn sàng tham gia chống lại các
lực lượng cảnh sát biển của các nước láng giềng, đơn cử như với Nhật Bản ở quần
đảo Senkaku và với Hàn Quốc, họ cũng không ngại ngần truy đuổi và tấn công cả
các tàu quân sự Mỹ. Khi gặp phải sự phản kích và ngăn chặn từ phía bên kia, họ
yêu cầu các tàu hải giám, ngư chính hỗ trợ can thiệp.
Các
tàu của Trung Quốc dù không có sự hiện diện của vũ khí quân sự, nhưng họ được
trang bị vòi rồng công suất lớn và các móc sắt. Họ làm cho những ngư dân của
các nước láng giềng có cảm giác bất lực và sợ hãi. Đôi khi, các tàu quân sự
cũng yểm trợ, sẵn sàng nổ súng uy hiếp các thuyền nhân.
Tính
đến thời điểm này, chiến lược “Hồng kỳ rực Biển Đông” và chiến thuật “lấy biển
vây bờ” cùng những giải pháp khác phi quân sự của Trung Quốc đã mang lại hiệu
quả nhất định. Các ngư thuyền Trung Quốc, với số lượng áp đảo, được sự hỗ trợ
của chính quyền đã gây rất nhiều khó khăn và lúng túng cho các nước láng giềng
trên biển. Điển hình như vụ bãi cạn Cỏ Mây (Second Thomas), bãi đá ngầm Scarborough . Các cơ quan nghiên cứu biển các nước khu vực
Đông Nam Á cũng ghi nhận hiện trạng các ngư thuyền của Trung Quốc đang nỗ lực
vét cạn nguồn tài nguyên thủy sản trên vùng nước của các nước láng giềng trên
vùng nước Biển Đông.
Trước
chiến lược này, các đồng minh của Mỹ cũng như các nước đang có tranh chấp trên
biển với Trung Quốc gặp phải khó khăn rất lớn. Do chính phủ Mỹ đã tuyên bố
”không dùng vũ lực quân sự đối với ngư dân”, vì vậy các đồng minh của Mỹ không
thể sử dụng lực lượng vũ trang và khí tài quân sự để ngăn chặn hoặc đối phó với
chiến thuật 'biển tàu cá'. Một vài tàu cảnh sát biển cỡ nhỏ khó mà đương cự
được đội quân hàng trăm ngư thuyền. Và đằng sau là sự hậu thuẫn của các tàu hải
giám, ngư chính có nguồn gốc từ các tàu quân sự.
Với
số lượng vượt trội cả về tàu đánh cá có trọng tải lớn và các tàu hải giám, ngư
chính thực chất là các tàu quân sự hoán cải, người Trung Quốc dường như cho
rằng sức mạnh và sự tự tin để thống trị Biển Đông. Được sự hậu thuẫn lớn, các
ngư dân Trung Quốc thoải mái vơ vét tài nguyên biển và không quá lo lắng đến sự
ngăn chặn và trừng phạt của các nước láng giềng khi họ xâm phạm chủ quyền của
nước đó hoặc hoàn toàn thoải mái khi ào ạt đổ xuống các vùng nước tranh chấp
nhằm thể hiện quyền lực của đại quốc. Cho đến hôm nay, Trung Quốc vẫn chơi con
bài “du kích ” trên Biển Đông với áp lực từ sức mạnh dân sự ngày càng lớn.
Hai hướng tiến công
Tham
vọng độc chiếm và điều hành Biển Đông của Trung Quốc bao hàm nhiều yếu tố,
trong đó yếu tố kinh tế đóng vai trò quan trọng ở mức sống còn. Những năm 1990,
chỉ có Mỹ và Nhật Bản là những đối tác kinh tế quan trọng của khu vực Đông nam
Á. Nhưng hiện nay Trung Quốc đang là đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của
khu vực, quy mô phát triển kinh tế của Trung Quốc đã đi vào cấp độ đầu tư, vượt
xa khỏi lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu, dịch vụ và tài chính.
Trung
Quốc đã ký kết rất nhiều các thỏa thuận với các nước trong khu vực, bao gồm
phát triển hạ tầng, kết nối Đông Nam Á với Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc
xây dựng các tuyến đường giao thông sắt bộ, đường thủy và mạng lưới điện năng
cấp quốc gia, các hải cảng kinh tế xuất nhập khẩu, kết nối các nước Đông Nam Á
với hệ thống giao thông Trung Quốc vào một siêu hệ thống kinh tế thương mại
khổng lồ.
Không
cần phải có chỉ số IQ quá cao để hiểu, các liên hệ kinh tế và các mối quan hệ
giao thương có thể được sử dụng như những đòn bẩy mang tính chiến lược trong
các chính sách gây áp lực đối ngoại. Trong cuộc gặp của các bộ trưởng Bộ ngoại
giao ASEAN năm 2012 ở Campuchia đã xuất hiện những mâu thuẫn dẫn đến các tranh
cãi gay gắt.
Việc
Trung Quốc đưa tàu du lịch vào vùng nước tranh chấp đã làm tăng thêm một vấn đề
nghiêm trọng đối với khu vực Biển Đông. Tất nhiên, các tàu cảnh sát biển, tàu
quân sự của các nước láng giềng không thể bắn chìm hoặc ngăn chặn bằng vũ lực
đối với tàu du lịch, ngay cả khi họ cho rằng tàu du lịch đang xâm phạm vùng
nước chủ quyền của họ.
Từ
những chuyến du lịch gần, sẽ có nhiều tàu hơn nữa với những chuyến du lịch xa
hơn nữa. Sẽ không đơn thuần chỉ là người Trung Quốc đi du lịch, mà còn có cả
những người nước ngoài. Ở các khu vực tranh chấp, vấn đề đã trở nên vô cùng
nghiêm trọng.
Có
thể suy đoán rằng, quyết định đưa lực lượng thứ 3 (lực lượng dân sự) vào cuộc
chiến giành quyền thống trị Biển Đông là một nước cờ quyết liệt, thực hiện ý đồ
chiến lược thực hiện đường 9 đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông. Tín hiệu nguy
hiểm đã lan truyền trong khu vực châu Á, đặc biệt đối với các nước có tranh
chấp chủ quyền với Trung Quốc.
Tín
hiệu này cũng buộc Mỹ phải "xoay trục" trọng tâm chiến lược về châu Á
– Thái Bình Dương. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng một phần lực lượng
quân đội Mỹ sẽ được điều chuyển tới châu Á, lực lượng này sẽ nằm ngoài kế hoạch
cắt giảm ngân sách quân sự. Chính phủ một số nước Đông Nam Á đã quyết định tăng
cường hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng. Nhưng từ sau nhiệm kỳ của Bộ
trưởng bộ Ngoại giao Mỹ, bà Hilary Clinton, dường như Mỹ cũng phần nào lới lỏng
ảnh hưởng của mình đối với các đồng minh châu Á, vì chính bản thân Mỹ cũng có
mối quan hệ khá đặc thù và đậm màu sắc lợi nhuận trong nhiều vấn đề quan hệ với
Trung Quốc.
Nhìn
từ góc độ kinh tế chính trị, có thể nhận rõ tư duy chiến lược của Trung Quốc
như sau. Trên Biển Đông cùng tiến hành song song hai hướng tiến công chủ lực:
hướng thứ nhất là ngư thuyền dân sự kết hợp du lịch biển đảo khằng định chủ
quyền; hướng thứ hai là lực lượng chấp pháp trên biển như các đội tàu hải giám,
ngư chính.
Đứng
sau lưng hai lực lượng này là lực lượng hải quân hùng hậu của Trung Quốc. Hai
lực lượng này trong giai đoạn từ cuối năm 2012 đến nửa đầu năm 2013 đã hoạt
động hết sức tích cực trong tranh chấp biển Đông, sự gia tăng các hoạt động
diễn tập trên Biển Đông, Biển Hoa Đông và những cuộc diễn tập với quân đội Nga
đã đưa các nước xung quanh vào tình huống nghi ngờ và lúng túng. Trung thành
với luận thuyết “trường kỳ kháng chiến”, “chiến tranh nhân dân”, Trung Quốc
đang từng bước thực hiện tham vọng thống trị các vùng nước đang tranh chấp với
nhiều chiến thuật phức tạp khác nhau.
Trung
Quốc xây dựng một đội quân gồm các tàu hải giám, ngư chính hùng hậu tiên phong
trong tranh chấp chủ quyền trên biển.
Dường
như tư duy chiến lược “Hồng kỳ rực biển Đông” và “bất chiến tự nhiên thành” với
ý đồ kéo dài thời gian tranh chấp, lấy ngư thuyền và chấp pháp trên biển làm
lực lượng chủ chốt từng bước lấn chiếm khu vực, với dân số đông, sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế và lực lượng quân sự hùng hậu, sẵn sàng cứng rắn khi cần
thiết, con cháu của Tôn Tử tin tưởng vào thắng lợi sau một vài thập niên nữa.
Nhưng
chính tư duy “Quần chúng đông đảo, kinh tế cường thịnh, quân sự hùng mạnh” của
một siêu cường hung hăng vẫn có một điểm yếu chết người: Lịch sử chứng minh
Trung Quốc chỉ giỏi trong các cuộc nội chiến kiểu thời Xuân thu Chiến quốc chứ
không có khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh bên ngoài, nhất là chiến tranh
trên biển. Và sẽ rất nguy hiểm hơn nếu cuộc chiến tranh trên biển kéo dài.
Hiện
nay, Philippines
dường như đang bị Trung Quốc lấn sân, gây áp lực dữ dội nhất và có nguy cơ mất
đi các bãi cạn. Đương nhiên với sức mạnh quân sự còn hạn chế, Philiphines không
có hy vọng giành phần thắng trong cuộc hải chiến nếu nó xảy ra. Nhưng trong
trường hợp nổ ra chiến sự, chỉ cần các chiến hạm Trung Quốc đánh chìm một tàu
Philiphines cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế của Trung Quốc cũng chìm xuống
biển rất nhanh.
Xung
đột quân sự sẽ dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang tốc độ cao đến chóng mặt của
khu vực châu Á – Thái Bình Dương khiến nền kinh tế Trung Quốc cũng không đủ sức
chịu đựng nổi. Khu vực Biển Đông có thể sẽ bị phong tỏa cho một cuộc chiến dài
ngày. Các đoàn ngư thuyền, du lịch Trung Quốc phải đối mặt với nhiều nguy cơ
bài Hoa, các đối tác kinh tế của Trung Quốc bao gồm cả Nga sẽ đồng loạt ngoảnh
mặt làm ngơ. Châu Âu sẽ có những quyết định khắc nghiệt với các hợp đồng kinh
tế Trung Quốc. Và cuối cùng, bộ Tài chính Mỹ với phố Wall sẽ buộc phải vĩnh
biệt những giao thương tiền tỷ trên đại lục. Đó thật sự là thảm họa với hệ
thống kinh tế - chính trị Trung Quốc hiện nay.
Lo
lắng hàng đầu của Trung Quốc hiện nay là việc các nước Đông Nam Á gia tăng sức
mạnh quân sự của mình, đồng thời phát triển các hải đoàn ngư nghiệp có số lượng
đông đảo, các tàu đánh cá có lượng giãn nước lớn, có khả năng khai thác biển
dài ngày và được sự ủng hộ về mọi mặt của các chính phủ trong khối ASEAN. Các
lực lượng cảnh sát, tuần biển các nước thể hiện sự cứng rắn trên Biển Đông và
sẵn sàng đáp trả những hành động khiêu khích bằng các biện pháp quân sự. Đây là
điều mà Trung Quốc không trông đợi.
Trên
các quan điểm về quân sự - chính trị đối ngoại, khác hẳn với Mỹ ở thời điểm này
Trung Quốc không mong chờ chiến tranh và cũng chưa sẵn sàng cho một cuộc đối
đầu quân sự. Những hành động trong vùng nước Senkaku đã khẳng định một điều:
Trung Quốc có thể cố gắng đe dọa sử dụng biện pháp cứng rắn như các tướng lĩnh
diều hâu của họ vẫn luôn đánh võ mồm, nhưng cân đối về lợi ích và nguy cơ
(người Trung Hoa tự xưng là bậc thầy về lý luận thực dụng).
Các
chuyên gia quân sự-chính trị Nga nhận định trong giai đoạn từ 4 -5 năm nữa
Trung Quốc không có khả năng tiến hành chiến tranh lớn và xung đột vũ trang khu
vực mà chỉ có thể sử dụng lực lượng tuần cảnh mạnh với lực lượng ngư dân, du
lịch, ngư chính, hải giám làm chủ công để lấn chiếm, tranh đoạt.
Tương lai của khu vực Đông Nam Á và những vùng nước thuộc Biển Đông không thể dự đoán trước và còn xa mới đạt được sự ổn định khu vực. Trung Quốc vẫn quyết liệt trong những đòi hỏi vô lý và thậm chí ngang ngược về chủ quyền của mình, mặc dù họ không hề có những căn cứ thuyết phục về vấn đề chủ quyền trong lĩnh vực luật pháp quốc tế về biển.
Trịnh
Thái Bằng
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.