Việt
Nam
đối diện thách thức trong lúc cải tổ kinh tế dường như chậm lại
Các
công ty quốc doanh chiếm tới 60% các khoản vay ngân hàng và giữ hơn một nửa các
khoản nợ xấu của cả nước.
Sau
chừng ba thập niên, nước này vẫn đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang
"kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", với quyền lực
vẫn nằm trong tay Đảng Cộng sản.
Không
phải là Trung Quốc, mà là Việt Nam .
Đất
nước từng được coi như "Trung Quốc tiếp theo" do sự chuyển tiếp ổn
định, nay bắt đầu tạo ra những quan ngại về cuộc khủng hoảng nợ đang dần hiện
ra.
Với
Việt Nam ,
sự thống trị của các doanh nghiệp quốc doanh vẫn là vấn đề, tuy đã gần ba thập
niên kể từ sau công cuộc "đổi mới" theo định hướng thị trường.
Việt
Nam
có cùng vấn đề như Trung Quốc, đó là các doanh nghiệp quốc doanh lại chính là
nguồn cơn của các khoản nợ xấu có thể nhấn chìm hệ thống ngân hàng.
Việt
Nam
đã thành lập các công ty quản lý tài sản nhằm nhận các khoản nợ xấu từ các ngân
hàng quốc doanh chuyển sang hồi đầu năm nay.
Mô
hình Trung Quốc
Đây
là điều tương tự như những gì Trung Quốc làm hồi 1999, khi nước này thành lập
bốn công ty như vậy nhằm dọn dẹp sổ sách của bốn ngân hàng quốc doanh lớn trước
khi mở cửa ngành ngân hàng nhằm tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào
năm 2001.
Thế
nhưng vấn đề nằm ở chỗ nợ xấu không chỉ là khoản ghi sổ, mà là dòng lưu thông.
Nói
cách khác thì các khoản nợ lũy kế cứ kéo dài trong các doanh nghiệp quốc doanh
chính là vấn đề.
Trung
Quốc hồi giữa thập niên 1990 đã có bước đi lớn nhắm cắt bỏ nhiều công ty nhà
nước. Một lượng lớn các công ty nhà nước đã bị dẹp, đưa con số từ khoảng 10
triệu xuống còn chưa tới 300.000 công ty vào cuối thập niên này.
Trung
Quốc vẫn có mảng quốc doanh lớn, nhưng đã có nỗ lực đáng kể nhằm cắt giảm các
khoản nợ xấu bằng cách tăng tính hiệu quả của các công ty được nhà nước hỗ trợ
còn lại.
Điều
này được thực hiện bằng cách tư hữu hóa từng phần hoặc cổ phần hóa các hãng
quốc doanh lớn, kể cả ngân hàng.
Tất
nhiên, Trung Quốc đã tạo ra những vấn đề khác cho chính mình khi dùng hệ thống
ngân hàng để tài trợ phần lớn cho chính sách thúc đẩy tài chính lớn, qua đó
thúc đẩy kinh tế trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hồi 2008.
Việt
Nam
đã cam kết cải tổ các doanh nghiệp quốc doanh, nhưng tiến độ nhanh tới mức nào
thì lại là chuyện khác. Chẳng hạn, Ngân hàng Thế giới nói rằng bất chấp mục
tiêu bán cổ phần của 93 công ty nhà nước hồi năm ngoái, việc bán thực sự chỉ
được thực hiện tại 12 công ty.
Tiến
trình chậm trễ
Câu
hỏi đặt ra tại sao việc cải tổ lại diễn ra chậm đến vậy.
Như
tôi đã đề cập ở trên, Việt Nam
được coi là một Trung Quốc tiếp theo, do sự chậm chạp tương tự trong việc xử lý
nền kinh tế.
Đây
cũng là một quốc gia tương đối lớn, không đông như Trung Quốc 1,3 tỷ người,
nhưng cũng có gần 90 triệu dân, đứng thứ 13 trên toàn thế giới.
Và
cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam
đã quyết định không đi theo hướng "liệu pháp sốc". Đó là điều mà Liên
bang Xô viết trước đây làm khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung hồi giữa
thập niên 1990.
Thay
vào đó, các quốc gia ở Á châu đã từ từ giới thiệu sức mạnh thị trường, như cho
phép các công ty không thuộc sở hữu nhà nước hoạt động, để các chính phủ cộng
sản có thể từ từ cải tổ mảng quốc doanh.
Nhìn
vào thời gian suy thoái kéo dài cả thập niên mà Nga và các nước Đông Âu phải
trải qua sau thời kỳ chuyển đối gấp gáp, có lẽ người ta không mấy ngạc nhiên
khi Trung Quốc và Việt Nam
có vẻ như đang áp dụng những điều khôn khéo.
Tuy
nhiên, có một trở ngại quan trọng cho công cuộc cải tổ ở cả hai nước này.
Người
ta có thể lập luận rằng để tiến hành quá trình chuyển đổi gấp gáp sang nền kinh
tế thị trường thì một quốc gia cần phải loại bỏ bàn tay kém hiệu quả của nhà
nước.
Quyền
lợi được đảm bảo
Hệ
thống ngân hàng VN đang phải gánh nhiều nợ xấu của các công ty quốc doanh
Nó
cũng bao gồm việc ngăn chặn các nhóm lợi ích và các căn cứ quyền lực của những
đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ việc cải tổ. Họ có thể đón trước được
những cải tổ tiếp theo.
Tất
nhiên, có những vấn đề trong quá trình chuyển đổi ở Nga và các nước khác, trong
đó có cả sự trông chờ không thực tế rằng một nền kinh tế tư nhân sẽ nắm thế chủ
đạo một khi nền kinh tế quốc doanh bị gỡ bỏ.
Trung
Quốc đã thực hiện điều được gọi là cải tổ "từ dễ đến khó". Tức là
thực hiện các bước cải tổ đơn giản về mặt chính trị trước, chẳng hạn như ưu đãi
cho các mặt hàng nông sản trước, và để các vấn đề khó hơn lại, làm sau.
Và
những quyền lực mới đã bắt đầu khiến cho các bước cải tổ tiếp theo càng thêm
khó khăn.
Với
Việt Nam
thì việc cải tổ có vẻ như sa lầy do sự bất tài của những người điều hành các
công ty nhà nước trong việc tư hữu hóa công ty ít nhất là từng phần, nếu không
phải là toàn phần.
Nói
cách khác, những người vốn được hưởng lợi từ việc thị trường hóa nền kinh tế
nay đang kẹt trong các công ty làm ăn kém hiệu quả của mình, tạo gánh nặng cho
hệ thống ngân hàng.
Nợ
chính phủ của Việt Nam
hiện chiếm khoảng 50% GDP, và đáng nói là có khoảng 37% là nợ nước ngoài.
Rồi
khi các khoản nợ của các công ty nhà nước được cộng vào thì tổng nợ tăng gấp
đôi, lên mức 100%. Đó là những con số thống kê làm gióng lên những hồi chuông
báo động về nguy cơ khủng hoảng.
Để
tránh khủng hoảng, Việt Nam
cần phải cắt bỏ gánh nặng từ các công ty nhà nước, đồng thời cần đẩy nhanh việc
tư hữu hóa.
Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Khi buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung:
Việt Nam mình sẽ sánh cùng năm châu
Này ông, chuyện ấy còn lâu!!!
Ca dao XHCN
Mà
để làm được những điều đó, người ta cần đối phó với những nhóm lợi ích thủ cựu.
Với
những nước áp dụng cải tổ, bài học là cải tổ chỉ thành công khi người ta đụng
đến không chỉ vấn đề năng suất mà cả quyền lực. Với Việt Nam , đó có lẽ
là một bài học khó nhằn.
Linda
Yueh
Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà
con vui
Ca dao XHCN
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.