Tháng
6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc mọi người trong vùng kiểm soát của
chính phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cô cùng lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm Điện
Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn trái ngược càng làm
cho mọi người thêm sợ hãi. Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận,
có tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội Pháp và quân đội Quốc
Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt
doanh trại được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng bắt đầu
theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về Nam Định cùng các xe cộ từ Nam
Định nối nhau đi Hà Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng
cối và đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.
Bộ
Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề lên tiếng về tình hình tại Bắc
Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn
binh hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954 mà họ đã loan báo
trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng.
Những truyền đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng hộ ông Diệm
xuất hiện lác đác ở Nam
Định.
Ba
ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết
vật dụng và người, trạm hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do
lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.
Đường
phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954.
Gia
đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ
sáng, một anh lính tống thư viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển,
ghi đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể cả 4 gia đình ở
cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo
Chính Đoàn dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8
giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.
Việc
di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đó. Số người ngồi trên xe
thoải mái rộng rãi vì không ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc
valise và túi xách tay gọn nhẹ.
Lệnh
di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ
Lý-Hà Nội vào khoảng giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10
phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay muộn quá theo giờ ấn
định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tránh nhiễu loạn giao thông.
Hồi
đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo, hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống
cuồng không biết phải mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25
phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy thằng bạn. Cô ruột tôi
, người nuôi nấng tôi từ nhỏ không chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng
mẹ tôi hiểu ý, mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám về muộn
đâu.”
Mẹ
tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ không thua các tay đua vòng
quanh Đông Dương, xẹt qua trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm
17 tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.
Nàng
đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ nàng có nhìn thấy tôi hay không,
nhưng tôi vội vàng đánh bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về
phía cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng 10 phút. Ở miền
Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi
linh cảm chuyến đi này sẽ lâu lắm., có thể là cả đời. Sau này trong đời lính
chưa bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp nhiều tình thế rất
khó khăn nguy hiểm.
Quân
cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu,
từng đoàn xe gồm năm mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe
đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên đường đi, tại mỗi cây
cầu đều có một toán Công Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ
phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.
Buổi
trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm
ấy thị xã Phủ Lý bị một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại sẵn nay
lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.
Cuộc
rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua trận nhưng lại là cuộc rút lui
thành công. Dựa vào tài liệu của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho
thấy Đại Tá Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động cuộc rút lui mau
lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút
Phủ Lý trước khi bị địch đánh chận.
Kế
hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan
từ đại úy mới được cho tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn
thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích thân thi hành. Bí
mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự
vệ ở nhiều làng mạc các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược
như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân chạy không kịp bị Việt
Minh bắt và giết hại.
Hà
Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình không nghe tiếng súng. Những vũ
trường, hàng quán sang trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng
dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm cho đường phố Hà Nội đông
người thêm nhưng vẫn không mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Lúc
ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế.
Những người có quan tâm đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể
là hai bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta gọi là “giải pháp
da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc.
Người ta cũng bàn tán gay go về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ
tuyến 13, 16 hay 19?
Đầu
tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo dân chúng chào đón ông, và nhiều
người hy vọng vị nhân sĩ này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm
1954 ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc
Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ
quan, binh sĩ cũng sẵn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc gia đang
nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ
thay thế người Pháp.
Nhóm
chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân Đảng đều hăng hái tham gia tuyên
truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném
truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi khác kể cả những nơi có
lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu có không khí căng thẳng và phảng phất mùi
chiến tranh.
Đường
phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận
Mas-36 và quân phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu và
doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy có lính Maroc hoặc da đen
canh gác, rõ ràng là Pháp đang phòng ngừa chính biến chống lại họ.
Ngày
14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông
cáo và bích chương của Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích
rằng rút 4 tỉnh phía Nam
là bàn tay trước kia xòe ra nay nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin
vào luận điệu này.
Đám
học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan
Trừ Bị và lục tục lên đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn lại
thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình hình đất nước.
Chiều
21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp thì có tin trên đài Con Nhạn
(Hirondelle) của quân đội Pháp vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã
được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang nhất bằng
chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến. Báo
này cho hay đất nước phân chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.
Tân
Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ
từ chức nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế
hiệp định Geneve về Đông Dương được ký lúc sáng sớm ngày 21 nhưng nhà cầm quyền
Pháp đã cho đồng hồ ngưng chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày
20. Tại Việt Nam
thời điểm này là trưa ngày 21.
Hà
Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần và dân chúng
nóng lòng về tin tức sẽ có cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ
chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ về Hà Nội đông
đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán
trước dịp Trung Thu có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu
thủy được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai thèm để ý.
Một
số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến thăm và khuyên gia đình tôi nên
ở lại nhưng mẹ tôi và tôi đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại
vài người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã mau chóng nhận rõ
thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa
tháng 3 năm 1955.
Những
gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một
thứ chợ trời. Một buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân đồ
đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên tàng cây cao chừng ba
bốn mét. Một thanh niên nổi nóng trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.
Một
trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó
là quốc kỳ của một nhà nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những người
bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô xát xẩy ra, kết quả viên
trung tá bị trọng thương vì gạch đá gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp
cứu.
Tin
tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vào
Nam
bằng phương tiện riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và tàu
biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại
một phần tham gia đoàn cán bộ xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại
tiếp cư do Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11 tháng 8
năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di tích và thắng cảnh quanh Hà
Nội lần cuối.
Hình
chụp vào tháng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư trên tàu USS Bayfield khi
tàu vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong
những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị
nạn từ Bắc vào Nam.
Sáng
sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù
người Pháp hỏi chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội toàn là
thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập trường và mục đích ra đi,
ông ta nắm tay chúng tôi giọng xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai
lầm để các bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai ngờ viên trung
úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy dài trên má.
Chúng
tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn
một vòng lấy cao độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt che
kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn hiện ra Hồ Gươm và 36 phố
phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào
cũng rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội. Vĩnh biệt miền
Bắc.
Sau
những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai
hàng dừa xanh làm chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh
Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau chúng tôi được phân phối đi
các trại tiếp cư khắp Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư
bằng cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào Sài Gòn từ đầu
tháng 8 năm 1954.
Nhờ
vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để
đón nhận người di cư đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như
Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất
vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải
lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi là Phú Thọ Lều để
phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa
trên 10 ngàn người.
Trợ
cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa
tươm tất. Lúc ấy một bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán
ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đá, một
gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương
trung sĩ 2,200 đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một căn nhà
gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa Hưng giá chừng 30,000 đồng.
Đời
sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng và ồn ào, làm
nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái
lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao tình nặng nhẹ bên bờ
bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là
những nét sinh hoạt rất sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực
cười.
Từ
tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng
vào Sài Gòn bằng đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu chiến.
Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc
ấy đã thay thế bộ Xã Hội trong nhiệm vụ chuyên biệt này.
Thời
gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các trường học được trả lại cho học
sinh. Trại Phú Thọ Lều giải tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở
nhà tư hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu sau cùng
tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.
Nếu
tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn 1 triệu vì có sự gian lận sổ
sách của một số viên chức cán bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ
dàng. Và không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều người nhận
định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.
Một
điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng
Nguyễn Văn Hinh chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính phủ và
lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên nhiều người Bắc không dám vào
Nam. Tin tức về vụ này làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại
loạn lạc mà đổi ý.
Nói
chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và thái độ can dự của người Mỹ đã gây
được tin tưởng trong một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vào Nam . Đại đa số
thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung
cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn
lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật mà họ cho là xương
sống của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.
Cuộc
di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu rộng trong lịch sử Việt Nam . Xin ghi
lại một vài sự kiện nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau
Hiệp Định Geneve 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.
Trước
hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn gắn những chia cách đáng buồn giữa
hai miền trong nước. Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế
độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về phong tục, ngôn ngữ
vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn
lại không gây hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau nhiều
biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đã góp phần thay đổi bộ
mặt bề ngoài cũng như nếp sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.
Trước
tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc.
Văn thư, giấy tờ, tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ Ngô
Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo chánh bất thành, luật lệ được thi
hành nghiêm chỉnh. Nhiều cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu
khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư Pháp Lý Lịch bây giờ
chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay
sau vài giờ thay vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có kết
quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào di cư đối với chính phủ.
Cuộc
đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số
lượng là một đòn bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính quyền Hồ
Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền
miền Nam mới. Đợt đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi nửa
tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả lại 5 cắc, chỉ cần xé
đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng tập tục này không áp dụng cho những giấy
bạc mệnh giá trên một đồng.
Lúc
ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn.
Nhiều người mở đài Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam ít hiểu
biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng
“Ngoài Bắc đã độc lập rồi, mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số
đụng chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam mới nhìn đồng bào di cư một
cách có thiện cảm hơn.
Trong
bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn đầu cuộc biểu tình vào dịp 20
tháng 7 năm 1955 đòi tống xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà
Nội trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần Hưng Đạo). Khi
bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai
khách sạn nhưng không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương quyết của
quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn nhởn nhơ tuyên truyền bán công
khai như trước.
Người
di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa phương mau chóng tạo ra những hiểu
biết và thông cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang
thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do
người Hoa kinh doanh, và họ dành độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt
ở mọi chợ. Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn cạnh
tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn nhiều người. Bà con lao động
xích lô kiếm đủ tiền tiêu trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm
một giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở Nam Việt lúc ấy
rất ít.
Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia thị trường lao động đã
làm cho đời sống kinh tế miền Nam
lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa
phương không hài lòng vì nếp sống thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở
lại.
Hình
chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong
một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư
lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường
đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư.
Trang
phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất là giới nữ sinh trung học tuổi đôi
tám. Nữ sinh Hà Nội làm dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. Nữ sinh
Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo dài được may vòng số 1
tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn
một năm các cô hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên sinh viên
học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc gác các cô qua y phục nữa. Điều
quan trọng và dễ thương hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều
khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính trị.
Các
trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần y nguyên ban giám hiệu và tổ chức
riêng. Từ Hà Nội vào, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng Vương
học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long… sau hai ba năm mới ra học ở các cơ
sở riêng trước Thảo Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần dần
pha trộn.
Chuyện
đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào Nam
và các bạn gốc miền Nam
mở chiến dịch phá bỏ tên đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới,
vốn là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài Gòn thực hiện trong
vòng khoảng một tháng.
Về
mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh
khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau
một thời gian ngắn người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa
bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau viết ra.
Đặc
biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng như những người yêu nhạc từ miền
Bắc vào Nam đã lôi cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến đến
tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên sau. Và ngược lại số người
Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.
Về
mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại
dâm Bình Khang bị đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình như chỉ
có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm phở tăng đến hàng chục. Các
quán cà phê cũng lục tục ra đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi
là phụ diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần tiến đến những
buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến
âm nhạc sâu rộng hơn. Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương
trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh quốc
gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai đài Huế và Hà Nội.
Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và pha trộn về từ ngữ tuy
vẫn giữ những nét độc đáo của từng vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là
sau nhiều năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói giọng địa
phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc, đứa thì nói cả hai ba giọng tùy
theo môi trưởng xóm giềng và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng
một lúc các giọng khác nhau.
Về
mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối
sống phóng khoáng, chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam . Sau một
thế hệ, tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương của họ còn ở
lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn
khi gặp đợt Bắc Kỳ mới vào Nam .
Trong
đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ trong thời gian ấy. Một là trước
ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội thì chùa Một Cột, di tích quý báu nhất của Việt Nam bị kẻ vô
danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một góc. Nghe tin ấy chúng tôi
đều hết sức buồn phiền. Hai là giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao thì Hoàng
Dương, em nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội với lời ca tha
thiết “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi… mái trường phượng vĩ dâng hoa,
dáng chiều ủ bóng tiên nga… biết đâu ngày ấy anh về.” Ca khúc này khiến lứa
tuổi 18, 19 chúng tôi cảm thấy rõ điều mà các văn thi nhạc sĩ gọi là “tan nát
cõi lòng.”
Dĩ
nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ mọi thành phần tốt xấu kể cả
đầu trộm đuôi cướp, quan lại tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân
và nội tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của xã hội, số
người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc
gia chân chính, thì những phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.
Một
số người cho rằng người miền Bắc di cư đã là chứng nhân lịch sử khiến đồng bào
miền Nam
hiểu rõ bản chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần nhỏ. Phần
quan trọng hơn là chính vì thực tế những đường lối mà Cộng Sản thi hành tại
miền Nam
tại nông thôn từ khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đã thấy rằng chế độ Cộng Sản
đi ngược lại quyền lợi và sự an hòa của nhân dân ta nhất là giai cấp nghèo khổ
ở nông thôn.
Tôi
và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam gần 40 năm tính đến năm 1990 qua
di trú sang Hoa Kỳ. Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm trong
đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. Vì thế chúng tôi có hai miền quê quán.
Quê quán thứ nhất ở miền Bắc còn ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền
Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng nhiều vui buồn, yêu thương,
giận dỗi, vinh quang và tủi nhục vì trải qua quãng đường đời dài 40 năm với
biết bao nhiêu là kỷ niệm.
Lữ
Tuấn
Phim: chúng tôi muốn sống
Bấm trên hình hoặc link
http://www.youtube.com/watch?v=yH67PS8aY5M
http://www.youtube.com/watch?v=-ye5QfFyVMo
http://www.youtube.com/watch?v=sZ_urMMnKjM
http://www.youtube.com/watch?v=Mf9n5KbUOS4
http://www.youtube.com/watch?v=XLMUObNE_K4
http://www.youtube.com/watch?v=MRZy7RthT3s
http://www.youtube.com/watch?v=QxkfqkQgnfA
http://www.youtube.com/watch?v=aRdEstInPQ8
http://www.youtube.com/watch?v=FKfCo4ANghY
http://www.youtube.com/watch?v=fRuP5eWnb6U
http://www.youtube.com/watch?v=XsA8Dof-qh8
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.