Kỹ
nghệ thức ăn nhanh (fast food) đang là một kỹ nghệ phát triển rất mạnh ở Hoa
Kỳ. Hàng năm, có thêm trên dưới 10 ngàn tiệm mới được tung ra khắp nơi trên toàn
quốc, trong đó khoai nhúng trong dầu là một món thông dụng của kỹ nghệ nầy,
chiếm số thương vụ 100 tỷ Mỹ kim hàng năm.
Khoai nhúng trong dầu là những que khoai được cắt theo nhiều kích thước khác nhau do đó mang những tên khác nhau tùy theo thương hiệu riêng của từng công ty.
Lịch sử của khoai nhúng trong dầu
Khoai
nhúng trong dầu thường được người Việt gọi là khoai chiên để chỉ các loại
French Fries. Thực ra khoai chiên nầy đã xuất hiện lần đầu tiên tại Bỉ
(Belgium) vào thế kỷ thứ 18, và tên French Fries có từ thế kỷ 19, do động từ
“frire” của Pháp dịch qua tiếng Anh là “fry” và có nghĩa là “deep-fat frying”.
Nhưng tên gọi đúng nhất của món nầy là “pommes de terre fritées” (deep-fried
potatoes). Trong lúc đó, chữ “French fried” đúng nghĩa là dùng để chỉ những
cách nấu như gà chiên (fried- chicken), hành chiên (fried onion ring) v.v… chứ
không hẳn là món khoai chiên.
Vào ngày 11 tháng 3 năm 2003, Cty nhà hàng Beaufort, North Carolina, nơi cung cấp thức ăn cho các văn phòng của Hạ viện Hoa Kỳ đã đổi tên French Fries thành tên Freedom Fries để phản đối thái độ của chính phủ Pháp phê phán và kết án việc tấn công Iraq của Hoa Kỳ. Mãi cho đến ngày 2 tháng 8, 2006, tên French Fries mới được gọi trở lại. Tuy nhiên, kể từ đó, trong dân gian (Hoa Kỳ) danh từ French ghép trong thức ăn được đổi lại là Freedom như Freedom Bread thay vì bánh mì Pháp, hoặc Freedom kiss (nụ hôn tự do!) thay vì French Kiss.
Cách làm khoai nhúng dầu (khoai chiên)
Tùy
theo công ty thức ăn nhanh, nguyên liệu khoai được chuẩn bị khác nhau như: Cty
Mc Donalds và Burger King dùng khoai đã cắt sẵn, để đông lạnh nhiều ngày; cũng
như một số cty nhỏ mới xuất hiện trong vòng 10 năm trở lại dùng nguyên liệu
khoai tươi trước khi nhúng vào chảo dầu sôi như cty In-N-Out Burger.
Tuy các phụ gia dự phần vào việc gây ra hương vị đặc biệt cho từng công ty, nhưng yếu tố dầu xử dụng (xem bài viết Thức ăn chay: Dầu ăn trong maithanhtruyet.blogspot.com) trong việc nấu khoai là một yếu tố quyết định mang lại hương vị đặc biệt cho khoai. Và cả hai yếu tố trên cũng mang lại nguy cơ ảnh hưởng lên sức khỏe của người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi đi học vì đại đa số các thức ăn trưa đều có French Fries hay Chips trong thực đơn của nhà trường.
Vì vậy, Mc Donalds bị chỉ trích rất nhiều trên toàn quốc qua cung cách nấu khoai nhúng dầu trên. Nhưng kể từ năm 1990 trở đi, Cty đã chuyển hướng và dùng toàn dầu thực vật.
Nhưng vấn đề nảy sinh từ đây là làm thế nào để giữ được hương vị của khoai giống như trong thời gian dùng dầu mở bò! Do cần phải cố gắng giử đúng hương vị như đã quảng cáo trước kia là “hương liệu tự nhiên” (natural flavor), Mc Donalds phải thêm một số phụ gia khác nữa để không làm thay đổi mùi vị khi thay thế dầu mỡ bò.
Cty IFF sản xuất đủ mọi hương liệu cho thực phẩm, mang lại thương vụ cho Hoa Kỳ lên đến 1,4 tỷ Mỹ kim hàng năm, gồm hương liệu cho bánh mì, khoai từ bắp, các loại bánh ăn chơi (cracker), ngũ cốc ăn sáng (cereal), thậm chí những mùi đặc biệt cho thức ăn chó, mèo nữa. IFF còn làm mùi đặc biệt cho cà rem, các loại bánh ngọt cookies, đèn sáp (nến), kem đánh răng, nước súc miệng, các dung dịch dùng cho vệ sinh cơ thể như dầu gội đầu, thuốc giặt, thuốc rữa chén, hóa chất khử mùi (deodorant).
Trong
kỹ nghệ nước giải khát như nước trà, trái cây, nước có hơi carbonic, sữa đậu
nành, bia, các loại rượu cất (liquors) từ ngũ cốc v.v… cũng có sự hiện diện của
Cty IFF. Nên nhớ, Cty IFF cũng là tác giả của một số thương hiệu nước hoa nổi
tiếng trên thế giới là Estée Lander’s Beautiful, Clinique’s Happy, Lancôme’s
Trésor, và Calvin Klein’s Eternity.
Trở lại các mùi cho thêm vào trong French Fries, chính những mùi nầy sẽ tạo ra
hương vị đặc biệt cho từng thức ăn để có vị ngọt, vị chua, vị đắng, vị mặn, và vị
tạo ra mùi tự nhiên của các mô hữu cơ (astringent). Và còn có một mùi đặc biệt
nữa là mùi umami do các nghiên cứu gia người Nhật khám phá ra. Mùi nầy cho
chúng ta có cảm giác ăn một thức ăn giàu protein và amino acid như nấm, sò,
hến, và các loại rong biển.
Nguồn gốc của bắp trong thức ăn nhanh
Nguồn gốc của bắp trong thức ăn nhanh
Ngoài
một số nguy cơ về thức ăn nhanh kể trên, chúng ta cần phải tìm hiểu thêm vào
phần thịt gà hay thịt bò là thành phần chính trong thức ăn nhanh. Theo một
nghiên cứu gần đây của Đại học Hawaii ,
TS Hope Jahren đã thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu rộng về sự liên quan giữa
hai thành phần thịt trên và bắp.
Việc trồng bắp trên mãnh đất Hoa Kỳ nầy đã từng bị chỉ trích là không theo quy định quản lý môi trường và đây là một sự khai thác không bền vững, nghĩa là việc trồng tỉa đòi hỏi quá nhiều năng lượng so với mức lợi ích của thành phẩm là bắp. Thêm nữa, bắp đã được chuyển giống pha trộn thêm nhiều hormone tăng trưởng, cùng sử dụng quá nhiều phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật.
TS Jahren đã phân tích Carbon và Nitrogen trong 500 mẫu burger, fries, gà chiên. Bắp dùng để nuôi bò hay gà được ghi dấu đồng vị của carbon nhằm mục đích nhận diện được trong phân tích. Nitrogen trong phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cũng được đánh dấu đồng vị như carbon.
Các khám phá trên cho thấy nguy cơ bị nhiễm độc lâu dài do những yếu tố độc hại đến từ việc chăn nuôi và cung cách nấu nước của thức ăn nhanh.
Ảnh hưởng của mùi lên thói quen ăn uống
Hệ thống thần kinh khứu giác (olfactory system) của con người bị kích thích khi có một mùi lạ qua hương vị của thức ăn (hay nước hoa, hay mùi hương đặc biệt của mỗi người). Các hương vị đó là do hơi bốc ra sau khi chúng ta cho thức ăn vào miệng, và hương vị nầy dự phần đến 90% trong mùi của thức ăn.
Một món ăn được gọi là thích khẩu thường thường được xác định từ những năm đầu
trong đời sống của con người. Từ đó, con người có thể xác định được cá tính và
cung cách hội nhập vào xã hội khi lớn lên, sau khi tiếp nhận những hương vị
khác nhau của thực phẩm ở những giai đoạn khác của đời sống.
Có những mùi hương làm chúng ta nhớ mãi, nhất là khi đến tuổi trưởng thành. Do
đó, trong kỹ nghệ thực phẩm như fast food, mùi hương cố định sẽ giữ khách lại,
vì, người trưởng thành, một khi đã trở thành thói quen, họ sẽ khó thay đổi để đi
qua các tiệm ăn khác. (Có thể điều nầy đúng với kỹ nghệ ăn uống, nhưng không
đúng với phái nam. Vì bản chất của đa số phái nam là thích mùi hương lạ (?), từ
đó đưa đến “của” lạ chăng? Thích ăn Phở hơn ăn Cơm?).
Cũng cần nên nói thêm là kỹ nghệ tạo mùi là một công nghệ sinh hóa cao cấp. Sự tổng hợp và cân lượng có thể được tính đến một phần tỷ của nhiều hóa chất hợp lại. Thí dụ như mùi dâu (strawberry) là mùi tổng hợp của trên 350 hóa chất xuất hiện cùng một lúc qua khứu giác của chúng ta. Do đó, kỹ nghệ nầy cũng cần có những người ngửi mùi đặc biệt gọi là flavorist để thử các mùi vừa tổng hợp ở phòng thí nghiệm xem có giống như mùi “tự nhiên” không. Từ đó mới có những danh xưng như “mũi một triệu” (million dollar nose) trong việc thử mùi rượu chát.
Ảnh
hưởng lên sức khỏe của thức ăn nhanh
Như
đã nói ở phần trên, việc chuẩn bị và nấu nướng những thức ăn trong các nhà hàng
ăn nhanh hoàn toàn khác hẳn với cung cách nấu nướng của một nhà hàng thông
thường. Nguyên liệu nấu nướng có thể là những nguyên liệu có thể đã được trữ trong phòng lạnh từ nhiều tháng trước đó. Việc pha chế đòi hỏi phải có thêm các
phụ gia hay hương liệu phức tạp. Do đó, dù muốn dù không, một khi tiêu thụ
những thức ăn nầy thường xuyên trong một thời gian dài, sức khỏe của người tiêu
dùng có thể bị ảnh hưởng trong một thời gian dài sau đó.
Dĩ nhiên, một số thức ăn chơi khác cũng chứa chất béo bảo hòa như khoai lát mõng, các loại bánh nướng (cookies), nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu cùng đưa đến một kết luận đồng thuận là khoai tây nhúng dầu đã chuyển tải lượng chất béo bảo hòa vào cơ thể nhiều nhất so với các thức ăn khác.
Dường như ai cũng thông hiểu những điều kể trên, nhưng câu chuyện ăn uống cũng giống như “câu chuyện thường ngày ở huyện”, nghĩa là, biết để mà biết, nhưng vẫn tiếp tục ăn và cho con cái ăn như thường lệ vì đỡ mất thì giờ nấu nướng. Trong các học khu trường học chẳng hạn, nhà trường vẫn tiếp tục để nhà thầu cung cấp thức ăn chẳng những không bổ dưỡng mà còn độc hại cho trẻ em.
Theo thống kê, 30% trên tổng số bịnh ung thư là kết quả của thói quen ăn uống hàng ngày. Có thể acrylamide là tác nhân chính của những chứng bịnh ung thư nầy. Cũng tại hội nghị khẩn cấp của LHQ vừa nêu trên, các nhà nghiên cứu của phái đoàn Thụy Điển, Na Uy, Anh, Đức, và Hoa Kỳ đều đưa ra những nhật xét tương tự. Hội đồng cũng khuyến cáo rằng các nhà khoa học cần nghiên cứu thêm về nguy cơ của hóa chất acrylamide, một chuyển hóa chất trong dầu nấu sôi, cũng như nghiên cứu thâm sâu và định lượng mầm móng ung thư của hóa chất đó.
Qua những thông tin vừa kể trên, người viết hy vọng từ đó, mỗi người trong chúng ta tự rút ra được kết luận trong việc ăn uống cho chính mình và những người thân trong gia đình, ngõ hầu có được một cơ thể không vướng bận những bịnh thường xảy ra cho tuổi già như cholesterol cao, áp huyết cao, lượng đường trong máu cao có thể đưa đến những chứng bịnh làm cho chúng ta dở sống dở chết trong những ngày cuối của cuộc đời, và nhất là không làm phiền con cháu trong thời gian còn lại nầy.
TS.Mai Thanh Truyết
Monsanto: Một hiện tượng kỳ quái của Hoa Kỳ? |
Jul
11, 2011
Nhiều
mì gói ở VN có độc tố phá hủy DNA. image. http://baomai.blogspot.com/ BaoMai.
Cơn sốc vì thực phẩm chứa DEHP chưa qua thì người tiêu dùng lại "rùng
mình" vì mì chứa phẩm màu Tartrazine (E102). E102 là chất ...
Jun
30, 2011
Tia
nắng có thể xuyên qua lớp da không quần áo làm tổn thương cho các phân tử DNA,
nhiễm thể của tế bào da. Tia cực tím của nắng gắt vào mùa Hè dễ làm da tổn
thương, đưa tới mau già, ung thư da. Sau đây là một số ...
Jan
06, 2013
Chất
làm cho sợi cơ phình to ra mà không tăng DNA trong tế bào sợi cơ, vì vậy chỉ
làm cho thịt nạc trở nên khô, thô nghèo chất béo nên làm giảm khẩu vị, làm cứng
chả lụa khi sử dụng thịt heo này để chế biến… Đối với gia ...
Jun
09, 2011
Ðây
là những tế bào nhỏ nhất của máu, không có nhân hoặc DNA, được tạo ra từ tủy
sống. Mỗi mm³ máu có từ 150,000-450,000 tiểu cầu. Tuổi thọ trung bình là 10
ngày. Nhiệm vụ chính của tiểu cầu là tạo sự đông máu.
Oct
25, 2012
Đồng
thời một nghiên cứu gần đây cho thấy một hợp chất trong quả bưởi được gọi là
naringenin có hiệu quả chống lại ung thư tuyến tiền liệt, vì nó giúp sửa chữa hư
hỏng DNA trong các tế bào tuyến tiền liệt của con người.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.