Năm 1971, trong một
dịp vào Sài Gòn chấm thi tại trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp
vợ chồng người Nam, quê ở Cần Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở
vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc
biệt của người lính văn phòng dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần
nào nhưng sự hiểu biết của cặp vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ
như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn lại thời xa xưa qua sách vở. Một
trong những mong ước của anh chị là một ngày nào đó được ra thăm Huế.
Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi
chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.
Sau hơn một tuần
chu du hết các thắng cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng,
sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời Huế về lại Cần Thơ, anh chồng
kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau để yên chí là không có tai
vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai tôi:
- Mình muốn cậu cho
mình biết cái "dzụ" đó.
Tôi nhớn nhác chưa
rõ chuyện gì, thì thào hỏi lại:
- Cái "dzụ"
gì vậy anh?
Anh trả lời hơi lắp
bắp:
- Thì, thì...
cái "dzụ"... ngủ đò ấy mà!
- Tôi vỗ
đùi cười ngặt nghẽo:
- Chuyện dễ ợt nằm
trong lòng bàn tay, muốn lúc nào cũng được mà anh làm tôi hết hồn.
Anh đỏ mặt nói
như phân bua:
- Thì tụi mình
là nhà giáo với nhau, mình sợ mang tiếng rồi thì khó lên lớp lắm. Bởi vậy mình
rất tò mò muốn biết "ngủ đò" nó như thế nào, nhưng lại rất ngại làm
phiền cậu.
Vì nể bạn, tôi trả lời
hăng tiết vịt cho có vẻ mình là dân lịch lãm ở quê hương mình, nhưng thật sự
trong bụng cũng cảm thấy hơi "ớn lạnh" khi nghĩ tới chuyện ngủ
đò.
Hàng ngày tôi vẫn đi
qua con đường Hàng Bè, có tên Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ít khi dám ngó thẳng xuống
những dãy đò đậu san sát dưới sông. Nhiều lần đi về khuya qua con đường Hàng Bè
nầy, thường khi tôi cố giả câm giả điếc trước những lần các bà mối lái lôi kéo
và mời gọi "Đò cậu !?" trên bến nước Tầm Dương canh khuya đưa khách nầy.
Cái xứ Huế nhỏ bé "trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay" lại mang nghiệp
dĩ làm nhà mô phạm mà được gắn nhãn hiệu "Thầy nớ ngủ đò" thì sự nghiệp
quân sư phụ theo chân đức Khổng Tử sẽ theo đò dọc mà trôi xuôi về biển.
Sau khi nói cứng với
anh bạn ở quán cà phê, tôi bỗng thấy lo cồn cào ruột gan. Việc đầu tiên là phóng
xe một mình xuống Bao Vinh, tìm người bạn thân lớn tuổi có biệt danh nghe như
hiệp khách hành là Phó Biên Thùy để vấn kế. Anh nổi tiếng một thời ngang dọc
trong giới ăn chơi biết trọng nghĩa khinh tài ở Huế. Nghe hết nỗi lòng thao thức
của tôi, lại đến lượt anh cười dòn tan. Tôi vái thầm là nụ cười dễ dãi của Thùy
không phải là nụ cười xã giao thiếu thực tế chiến trường của tôi. Thùy hỏi một
câu quá "hiện đại" làm tôi hơi ngỡ ngàng:
- Rứa bạn cậu
muốn ngủ đò mà "ngủ chay" hay "ngủ mặn"?
Tôi đang còn quờ quạng
thì Thùy giải thích:
- Ngủ đò chay là
thuê đò du lịch trên sông Hương để sinh hoạt bạn bè, văn nghệ, văn gừng với
nhau cho vui. Còn ngủ đò mặn cũng là giong đò trên sông Hương, nhưng lại sinh họat
ong bướm với những nàng Kiều sông Hương.
Tôi hỏi đùa:
- Nếu người ta
thích cả "vào chay ra mặn" có được không?
Thùy trả lời thật
tình:
- Trường hợp tất cả
khách đi đò đều là đàn ông thì chẳng có chi trở ngại, ai
thích mục nào làm mục đó, nhưng nếu có phụ nữ thì bắt buộc phải ngủ chay.
Tôi liền cậy Thùy
làm quân sư trong biến cố ngủ đò tổ chức cho người bạn. Theo sự cố vấn của
Thùy, tôi về nhà và mời cả hai vợ chồng người bạn ra nói chuyện.
Khi tôi mở lời đề
nghị mời cả hai vợ chồng người bạn đi ngủ đò, anh chồng mặt tái xanh không biết
vì sợ hay vì giận. Anh nhìn tôi một cách nghiêm khắc nửa như hối hận, nửa như
trách móc, hỏi bằng một gịọng rất xa lạ và lạnh lùng:
- Xin lỗi anh,
anh cho chúng tôi là hạng người nào...?
Chị vợ mím môi, vòng
tay trước ngực, mắt trống không nhìn bất động vào một cõi xa xăm nào đó để biểu
lộ sự thất vọng vì bị xúc phạm.
Tôi hơi lúng túng vì
sự hiểu lầm có vẻ quá nghiêm trọng thì Thùy đã xuề xòa, cái xuề xòa của một tay
từng trãi với đời đã làm cho không khí bớt ngột ngạt. Thùy đã dem hình ảnh những
cuộc du thuyền rồng của giới vua quan và các sứ giả ngoại quốc trên sông Hương
ngày xưa làm vũ khí dẫn giải. Lịch sử ngủ đò trên sông Hương bắt nguồn từ thú
chơi tao nhã của hàng mặc khách tao nhân. Đò chứa dầy trăng và chở đầy hương
hoa của thơ và nhạc. Nếu có chăng những chén rượu nồng và những trao gởi đầu
mày cuối mắt thì cũng chỉ là những sương khói nhẹ nhàng kiểu tài tử giai nhân.
Nước sông Hương, do đó, còn được gọi là nguồn “Tiêu Kim Thủy” - ngàn vàng chuốc
môt trận cười. Nhưng rồi mỗi nước non đều có một “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”.
Chuyện ngủ đò trên sông Sông Hưong cũng thế, cũng có một thời tuổi trẻ và một
thời tuổi già; một thời để yêu và một thời để chết. Sông Hương đã trút áo hào
hoa để sống còn qua những cơn tai biến của lịch sử, để hòa điệu sống giữa chợ đời
đầy cát bụi. Cái thanh và cái thô của Huế bao giờ cũng có sẵn. Thanh hay thô là
do kẻ đi tìm...
Thùy đã mô tả hết
cái thanh và cái tục trong chuyện ngủ đò để thuyết phục cặp vợ chồng bạn tôi
vui vẻ chấp nhận lời mời đi "ngủ đò" ngay chiều hôm đó.
Chiếc đò khách
có mui, lòng rộng hơn hai thước cặp bến Thừa Phủ vào buổi chiều nắng sắp
tắt. Thùy đã tế nhị mời thêm hai cặp vợ chồng yêu thích văn nghệ cùng đi và anh
cũng đã khéo léo cho đò cặp vào bến Thừa Phủ thay vì bến Gia Hội hay Phu Văn Lâu
vốn là những điểm nóng của khách "giang hồ ngủ mặn" để khỏi bị nhòm
ngó. Cặp vợ chồng bạn tôi tỏ vẻ căng thẳng và hồi hộp thấy rõ với những giòng mồ
hôi chảy dài trên má. Cả hai e dè bước xuống thuyền như một sự phó mặc cho số
phận an bài.
Đến khi thuyền ra giữa
sông như cánh chim bằng đã cỡi mây vùng vẫy ra ngoài bốn bể thì cái cảm giác
"ngủ đò" mới bắt đầu lắng xuống. Giữa lòng sông chiều nghe sóng vỗ mạn
thuyền róc rách với sức đẩy của gió Nồm từ Thuận An lên tự nhiên cái cảm giác
trần tục từ từ nhường lại cho sự thanh khiết và lắng đọng trong mỗi con người.
Thuyền hướng về phía cầu Bạch Hổ. Nhìn phía lái, o lái đò tóc lộng gió chiều
che nghiêng khuôn mặt trông như một người mẩu làm phông cho cầu Trường Tiền. Một
phần nhỏ cầu Trường Tiền còn hoe nắng giống chiếc lược ngà cài trên mái tóc
sông Hương. Cầu Bạch Hổ thô và đen sậm có vẻ như hiện thân của sự thách đố với
nắng gió và thời gian. Bên nầy là Thương Bạc, Phu Văn Lâu với cột cờ Thành Nội
sừng sững không biết uốn cong mình trước những cuồng phong của lịch sử nên đã
mang đầy mình những vết tích tang thương. Bên kia là bia Quốc Học-Đồng Khánh và
con đường áo trắng ngây ngất biết bao nhiêu kỷ niệm học trò đầy tiếng cười và
tiếng thút thít dấu giữa khăn mù soa thêu hoa tím của gặp gỡ và chia xa thời tuổi
dại.
Cặp vợ chồng miền
Nam ngồi sát vai nhau cho khỏi lạnh. Ngồi cạnh mũi thuyền, cả hai lặng im, mở
to mắt, căng buồng phổi để tận hưởng buổi chiều trên sông Hương. Tôi thấy Thùy
nhìn họ, không nói, nháy mắt mỉm cười. Cặp vợ chồng nhìn lại với ánh mắt
trẻ thơ mà trang trọng, tôi nghe cả hai cùng mấp máy: "Cám ơn
anh!".
Chiếc đò bềnh bồng
nương gió chiều lướt êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều
sang màu tím nhạt hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia
sông. Hai bên bờ, nhà cửa chìm khuất sau những bức tường cây giờ đã đổi sang
màu đen thăm thẳm huyền bí. Đọt dừa, đọt cau và tàng cây cao vút vẽ hoa văn cho
nền trời bàng bạc khói sương. Trăng dát vàng trên sóng nước và kết ngọc cả
giòng sông. Khi thuyền đến nhánh sông chia ba gần chùa Thiên Mụ thì sông nước
và làng mạc, ruộng đồng đã tắm ngập cả trăng. Khói sương, cây lá, lưng sóng và
tóc mây đều choáng ngợp ánh trăng vàng lung linh huyền ảo.
Giữa thanh vắng vô
cùng con người bỗng cảm thấy cái tôi của mình tan loãng để hòa vào cái "đại
ngã" của thiên nhiên. Mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và
giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng cho đến khi người chủ đò
từ đằng lái bước tới, nói với khách bằng ngôn ngữ hiện thực của con người:
-Xin quý khách
cho biết là muốn neo đò ở đây hay chèo lên ngã điện Hòn Chén.
Thùy hỏi ý kiến
chung và quyết định hướng đò lên ngã thượng nguồn sông Hương. Đò chèo quanh như
lưu luyến vùng sông nước xanh đen mượt trước chùa Thiên Mụ như có một chút gì
tiếc nuối hương xưa rồi quay mũi hướng về phía núi Bãng Lãng. Anh bạn người
Nam hỏi Thùy:
- Tôi đọc sử
nghe nói Chùa Thiên Mụ là do Nguyễn Hoàng - mà người đương thời gọi là chúa
Tiên, cho khởi công xây dựng từ năm 1601 phải không anh? Được đứng trước một di
tích lịch sử gần 4 thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn như thế kia, tôi cảm thấy xúc động
và ngưỡng phục người xưa vô cùng.
Thùy giải
thích thêm:
- Theo tương
truyền thì khi xưa, ban đêm có người trông thấy một bà lão mặc áo đỏ quần xanh
ngồi trên gò Hà Khê, tức là vùng đất cao của chùa Thiên Mụ ngay trước mặt chúng
ta đây, nói rằng: "Rồi đây sẽ có một vị chúa dân tới nơi này để dựng chùa,
đặng tụ linh khí và củng cố long mạch". Nói xong bà lão biến mất nên dân
chúng bèn gọi gò Hà Khê là núi Thiên Mụ. Khi chúa Tiên đặt chân tới gò Hà Khê
thấy cảnh trí hùng vĩ, trước có sông, sau có hồ, xa xa có núi. Cảm kích trước cảnh
non sông cẩm tú, trước khi quyết định dời đô về đất Thuận Hóa, chúa cho xây một
ngôi chùa trên gò Hà Khê lấy tên là Thiên Mụ Tự, đó là chùa Thiên Mụ ngày nay.
Người chủ đò cho biết
nếu chỉ chèo tay mà không dùng động cơ gắn sẵn trên đò thì ít nhất cũng mất hai
giờ nữa mới đến nhánh sông điện Hòn Chén. Thùy đề nghị là lúc về sẽ dùng đến
máy, nhưng vòng lên chỉ nên chèo tay. Rốt cuộc dư vang của sóng nước sông đêm vẫn
nghe vỗ vào mạn thuyền xao xác và tiếng chèo khua nước vẫn nhè nhẹ chẻ nước để
thuyền đi trong đêm trăng. Một người bạn của Thùy bắt đầu thổi sáo. Tiếng sáo
dìu dặt nương theo hòa âm của đất trời đủ sức lay động lòng người. Những người
trong đò bắt đầu ngâm thơ và hát những bài tình ca hay nhất của mình. Cặp vợ chồng
miền Nam cùng hát dân ca điệu lý con sáo, rồi lý cây bông như thơ của Kim Tuấn:
Em nhớ chàng em hát lý cây
bông
Như con sông con nước ròng con nước nổi
Em thương anh và nhớ anh quá đỗi...
Như cây lục bình quấn quít giòng sông...
Anh thương em sao anh
"hổng"tới
Để em buồn em hát lý cây
bông...
Cô lái đò chừng
như cũng hòa vui với điệu hát câu hò ngồ ngộ nhưng đầy cảm xúc của khách
bỗng cất tiếng hò dìu dặt theo nhịp với mái chèo. Tiêng hát cất lên từ sau lái
mang âm vang thanh thoát của người lĩnh xướng:
Ơ hơ...ơ ơ cầu Trường
Tiền sáu vài mười hai nhịp
(Chớ) em qua không kịp
(mà) tội lắm anh ơi à...ớ... ơ...ờ
Ơ hơ...ơ ơ... (Chơ)
thà rằng không biết thì thôi
(Chớ) biết rồi mỗi đứa
(ư...à...) ơ hờ...hớ mà... mỗi nơi ớ hơ a à... cũng
(ứ... a...) buồn...!
Tiếng hò vút cao, lững
lờ rơi dần xuống thấp, rồi im bặt... Cũng buồn! Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng
buồn. Có lẽ nguồn tình cảm miên man rất lãng mạn kiểu Huế nằm trong tiếng
"cũng". Cái "cũng... buồn" rất e dè nhưng cũng rất nũng nịu
thâm cung của cô gái Huế có nghĩa là níu kéo, là sẽ tương tư, là hào phóng một
cách "tình cho đi ai lấy lại bao giờ". Tất cả những người khách có mặt
trong đò đều khẩn khoản yêu cầu cô lái đò hò thêm bài nữa nhưng vẫn hoàn toàn
im lặng, cái im lặng bất thường của một tâm hồn sôi nổi thường có vẻ ghê ghê
như cây cối mới theo gió vật vờ bỗng đứng yên giữa vùng tâm bão. Cô lái
chỉ tay về mé sông bên kia với một vùng cây cối thâm u, đen kịt trong đêm. Giọng
cô nói như rì rào với gió : "Điện Hòn Chèn thờ Bà Chúa đó. Ngài thiêng lắm.
Ai hò hay hát giỏi, Ngài ưng ý, 'bắt lính' âm binh rồi thì hết đường chạy chữa,
chỉ có nước đem chôn thôi". Nghe giọng nói nghiêm trang như con chiên
ngoan đạo của cô lái, khách trên đò cũng cảm thấy phảng phất một chút sương mờ
"ớn lạnh" nên chưa ai tiếp tục cuộc chơi "để em buồn em hát lý cây
bông". Cặp vợ chồng Nam Bộ xích lại gần nhau thêm chút nữa chừng như để
che chở cho nhau mà trốn lính âm binh... Bỗng Phó Biên Thùy cất tiếng cười dòn
tan như cốm bắp An Thuận, tiếng cười không chờ đợi và đúng lúc có mãnh lực an ủi
chúng sinh trên đò như nhà pháp sư trừ ma ếm quỷ. Thùy chỉ tay về phía bờ sông
bên kia, nơi có lùm cây cao nhô lên, nổi bật giữa lằn chân trời cây đen thẩm,
giải thích:
- Đó là Điện
Hòn Chén, tên chữ là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc). Đây là đền thờ Nữ thần
Thiên Y A Na, vốn là một nữ thần Chàm. Theo Đào Thái Hanh trong Bulletin des
amis du vieux Hué; xuất bản năm 1914 mà thời đi học, tôi đọc lóm được của Ba
tôi thì Thiên Y giáng trần qua bóng dáng của một thiếu nữ đẹp huyền diệu và vào
đời qua một câu chuyện tình thần tiên vương giả. Rồi cũng như những câu chuyện
tình buồn của Huế, nữ thần cũng ra đi trong nước mắt. Nhưng cái mê hoặc của trần
gian đau khổ nầy nó lạ lắm. Nó vẫn còn mãi níu kéo nữ thần vương vân với cuộc đời
để ban bố bao nhiêu là phép lạ cho con người. Vì vậy, trong niên hiệu đầu, vua
Gia Long ban cho nữ thần chức tước “Thần tối cao và ơn đức vô biên, ban phước
lành khắp mọi nơi đầy linh hiển” .
Thế nhưng, khoảng
hai năm trước, tôi có dịp tham gia vào đoàn rước lễ của Thiên Tiên Thánh Giáo
Huế, hành hương bằng thuyền trên sông Hương từ Điện Hòn Chén về Bãi Dâu với
đoàn thuyền có đủ cờ quạt, lọng tàn, lễ nghi rực rỡ đầy màu sắc thì lại được
nghe một vị chức sắc cho biết đây là nơi thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nguyên bà là
con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng trần vào rằm tháng Tám năm 1557 đời
Mạc Phúc nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên. Người tiên giáng phàm nhưng vẫn
không thoát khỏi nợ tình với Trần Đào Lang. Và rồi cũng như Thánh nữ Thiên Y A
Na, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được về lại cõi trời năm hai mươi mốt tuổi, nhưng vẫn
yêu cảnh trần gian nên đành xin Ngọc Hoàng trở lại... với nhiều phép lạ giúp
dân lành nên đã trở thành một trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam: Phù Đổng,
Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Bà Chúa Liễu Hạnh đã được sùng
kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giày Nam Định,
tới chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào
Sóc Hương Nghệ An... trước khi giáng phàm chỉ đường cho chúa Nguyễn dựng nghiệp
ở Đàng Trong và xây dựng dinh cơ ở Huế. Vua nhà Nguyễn đã sắc phong cho bà chúa
là "Thượng Đẳng Tối Linh Thần".
Theo nguồn tin dân
gian truyền khẩu tại Huế thì bà chúa Điện Hòn Chén hết sức linh hiển. Đã có rất
nhiều người buôn bán xuôi ngược trên sông Hương đã bị "bắt lính" vì có
tài hát hò. Một số khác bị bà chúa "vật chết tươi" vì có thái độ bất
kính khi đò chèo ngang qua Điện Hòn Chén. Năm Tự Đức thứ 15, nhà vua cảm thương
bá tánh vô tội bị chết oan nên đã đích thân lên Điện Hòn Chén đeo chuỗi hột bồ
đề vào cổ bức tượng của bà chúa Liễu Hạnh và khuyên bà chúa hãy tu hành. Từ đó,
bà chúa không còn linh hiển như xưa nữa.
Người kể chuyện im lặng,
rồi trầm giọng đọc thơ với một chút cười buồn:
Mắt nữ thánh cũng sầu xanh soi bóng
Hương Giang ơi! Sao sóng lục vô chừng.
Phó Biên Thùy
lại cất cao giọng nói như đọc sớ trên sông:
- Xin van vái
bà Chúa, nếu tối nay bà bắt lính, Thùy tôi xin tình nguyện đi ngay, đừng bắt ai
khác tội ngiệp. Thùy nầy vốn ca xướng không hay nhưng được cái độc thân, vui
tính. "Dương binh" được xếp loại hai, nếu vô "âm binh" xin
bà xếp cho loại ba, lọai bốn chi cũng được...!
Hình như lên
tinh thần vì vui lây cái tinh thần hài hước của Thùy hay vì đã có người tình
nguyện "chết" thay cho mình nên từ chủ đến khách trên đò đều lấy
lại được cái vui hồn nhiên "giã gạo dưới trăng" tưởng như đã bị thần
linh ném giữa giòng sông.
Cái đẹp của
vùng thượng nguồn sông Hương trong đêm là vẻ đẹp huyền bí của Nghìn Lẻ Một Đêm
vì nó mênh mông và êm ả quá, nhưng trong từng giọt sương, từng mảnh trăng tan
trên mặt sóng, từng tiếng vỗ cánh của bầy vạc ăn đêm và tiếng xao xác của lau
lách đều mang ít nhiều huyền thoại của Cố Đô với dư vang của những dấu
oai linh hiển hách một thời vang bóng.
Chị bạn người Nam bỗng
thở mạnh, hít thật sâu và reo lên như vừa khám pha ra một điều gì mới lạ:
- Thấy không
kìa! Tôi nghe như vừa có một mùi thơm thoang thoảng trầm hương đâu đây. Tôi đọc
sách nghe kể là sông Hương có tên như vậy vì thường có mùi thơm trên sông...
Có tiếng của
anh bạn thổi sáo nói vọng ra từ phía trong mui đò:
- Tôi đang thưởng
thức mùi thơm đó chị ơi, nhưng rất tiếc là mùi thơm của Seventy Nine và
Half and Half trộn lại từ trong chiếc "píp" của tôi.
Chị bạn tiếc rẻ:
-Vậy thì lời đồn
sông Hương có mùi thơm là bịa đặt sao?
Thùy lên tiếng:
- Tôi cũng được
nghe mấy cụ xưa kể rằng, xưa kia hai bên bờ sông Hương có mọc một giống cỏ gọi
là "Thạch Xương Bồ", còn có tên gọi khác là "Ngoại Xương Bồ"
(Acorus Gramineus). Các nhà đông y coi Thạch Xương Bồ có tác dụng chữa bệnh như
vị thuốc trường sinh. Hoa và củ có mùi thơm đặc biệt, về mùa xuân phấn hoa bay
thơm lừng khắp cả mặt sông nên mới có tên là sông Hương.
Chị bạn người
Nam lại thắc mắc:
- Anh có bao
giờ nghe ai diễn tả lại cái "mùi thơm đặc biệt" của Thạch Xương Bồ nó
thơm nồng, ngọt dịu, đam mê, giống như một mùi hoa nào đó mà mình đã biết
không?
Thùy trả lời
hóm hỉnh:
- Chị ạ, tôi lớn
từng này tuổi đầu rồi mà vẫn còn độc thân là vì hương sắc của Thạch Xương Bồ đó
chị! Hồi còn sinh viên, tôi ở gần nhà ông thầy Tàu. Ông thường khoe là trong ba
cô con gái của ông, cô út là đại quý tử vì phấn má có mùi hương Thạch Xương Bồ.
Tôi đã bao phen cố làm một chàng Trọng Thủy Việt Nam để cố "ngửi" mùi
Thạch Xương Bồ trên má cô út Mỵ Châu Tàu lai coi thử cái "đọat hồn
hương" đó nó ghê gớm tới mức nào nhưng thất bại, có lẽ vì ông già đã hiểu
quá thâm thúy cái hệ lụy "Nam Quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt nên đã
thẳng tay làm cho chúng tôi xẻ nghé tan đàn.
Có tiếng anh
chàng thổi sáo xen vào:
- Các vị nầy
răng mà rắc rối dữ rứa? Thì cứ tạm cho mùi hương Thạch Xương Bồ nó cũng thơm
thơm ngọt ngào giống thuốc Seventy- Nine và Half and Half của tôi đang hút đây
nầy thì có chết ai đâu, bảo đảm sẽ không có ai chống đối hay kiện tụng chi mô
mà sợ.
Đò rời vùng
Thiên Mụ, xuôi về mạn Kim Long. Một giọng ngâm thơ nào đó, không hay nhưng đầy
cảm xúc, cất lên:
Kim Long có gái mỹ miều,
Trẩm thương, trẩm nhớ, trẩm liều, trẩm đi
Rồi cũng chính ngưòi
ngâm bình luận:
- Trời đất!
Làm như gái Kim Long toàn là tiên nga giáng thế không bằng. Xưa vua mê người đẹp,
vua liều vua đi là vì bị mấy ông quan lớn gài bẫy. Những vị quan lớn trong triều
phần đông ở miệt Kim Long cho gần cung đình. Ông nào cũng nuôi mộng con mình
lên làm hoàng hậu nên lắm ông quan đã khôn khéo đóng kịch cho con gái cưng của
mình mặc áo lụa hồng, choàng khăn nhiễu tím, giặt áo trên sông rồi thỉnh hoàng
thượng lên nguồn dạo mát. Vua đã ê chề với các cô cung nữ trong cung quá rụt
rè, run rẩy, sợ hãi trước long nhan nên mình cứng như cây củi. Nay ra ngoại
thành nhìn trộm được giai nhân má thắm lưng ong đang lả lơi để cho gió hôn trên
má, nắng cắn trên vai, nước đầm trên yếm... Thế là vua tương tư. Vua cải trang
vi hành đi thăm bá tánh. Vua thêm một lần biết yêu. Cung đình thêm một hoàng hậu...
Chuyện dân gian kể rằng,
vua Thành Thái cải trang làm người dân thường, lặng lẽ lên Kim Long đi tìm giai
nhân mà không gặp vì con gái Kim Long thường chuyên nghề thủ công ở chỗ im mát
nên nõn nà và đẹp nhưng ít khi ra ngoài. Vua thất vọng ngoắc một chiếc đò trên
bến sông Hương để thuê chèo xuôi về lại hoàng thành. Thuyền cặp bến rước khách,
từ trong khoang thuyền, vua nhìn ra sau lái thấy cô chèo đò đang độ tuổi xuân
căng phồng sức sống, với manh áo cũ vá vai, với môi thắm má hồng và tóc mây vờn
bay theo gió. Cô gái uyển chuyển theo mái chèo với vẻ đẹp tự nhiên làm vua rung
động. Vua lại gần hỏi với:
-Nì, o nớ! Rứa
chớ có chồng con chi chưa?
Cô gái che miệng
cười duyên, đáp vọng lại:
-Tui nghèo nàn xấu
xí có ai mà ưa!
Câu nói thủ phận,
chơn chất càng làm cho nhà vua cảm thấy cô gái càng đáng yêu hơn. Vua
Thành Thái bước tới giữ tay chèo cô lái lại, bắn tiếng:
- Tui biết có đám ni
khá lắm, để tui làm mối cho o. Chừ tui hỏi thiệt rứa chớ o có ưng lấy
vua không cái đã?
Cô gái vừa thẹn
thùa, vừa sợ hãi, nhớn nhác nhìn quanh, thì thầm nói với người khách lạ:
-Đừng nói bậy mà họ
chém đầu chừ!
Nhà vua đặt tay lên
cùng mái chèo với cô gái, nói như reo vui:
-Thiệt mà! O mà nói
“ưng” một tiếng là được lấy vua liền!
Trong khi cô gái vẫn
thẹn thùng thì có một cụ lớn tuổi cùng đi trong đò tham gia vào cuộc vui, lên
tiếng:
- O nớ! Có mất chi
mô mà lo. O cứ nói “ưng” một tiếng thử coi rồi để tui làm chứng cho.
Cô gái chèo đò Kim
Long đánh bạo, nhìn ông khách nói nhanh:
- Ưng.
Vua Thành Thái
thú vị dành lấy cán chèo trên tay cô gái:
-Rứa thì ái phi ngồi
nghỉ để trẩm chèo đưa về cung nghe.
Sau duyên kỳ ngộ đó,
cô lái đò áo vá vai đã trở thành một vương phi được nhà vua sủng ái. (Theo Bảo
Hiển - Chuyện Các Bà Trong Cung Nguyễn)
Ngày vui thường qua
mau và cuộc vui nào cũng có lúc tàn. Đò trăng của chúng tôi rồi cuối cùng cũng
đành phải chia tay với nguồn nước trên của sông Hương để trở về bến cũ vì đã
quá nửa đêm. Tráo về, người lái thuyền đã đưa khách nhàn du trở lại với thực tại
bằng cách gác mái chèo và nổ máy Yanmar F.10 gắn trên đò với tiếng nổ phành phạch
rất phàm tục như múa lân đánh trống bể.
Khi đò về đến
Phu Văn Lâu, đò không được chạy máy mà phải chèo trở lại. Thoát khỏi mùi khét,
âm thanh và sức đẩy của máy dầu cặn, trăng lại về trên sông và sóng lại vỗ mơn
man vào mạn thuyền. Thuyền tạm dừng lại trước bến Văn Lâu, anh bạn người Nam
hỏi Thùy:
- Đây có tên
là "Phú Vân Lâu", có lẽ bởi vì nơi đây thường có nhiều mây lắm phải
không anh?
Thùy giải
thích với nét cười thích thú:
- Hay! Anh đã
sáng tạo một ý nghĩa mới cho một tên gọi sai do thói quen của quần chúng.
Thật ra Phu Văn Lâu mới
là tên gọi đúng của nơi nầy. Ngày xưa cái lầu nầy là trung tâm thông tin của
triều đình với dân chúng. Những văn kiện quan trọng của nhà vua và triều đình
được niêm yết ở lầu nầy. Phu Văn Lâu có nghĩa là "lầu phô bày văn kiện"
(Phu: phô bày; Văn: Giấy tờ văn kiện; Lâu: lầu). Anh nhìn kỹ vào đằng trước của
lầu nầy sẽ thấy hai tấm bia có khắc chữ: Khuynh cái - Hạ mã (Nghiêng lọng- Xuống
ngựa). Bất cứ ai đi ngang qua đây đều phải nghiêng lọng đi đầu trần và xuống ngựa
đi bộ để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Từ Văn Lâu nhìn ra sông Hương có Nghinh
Lương Đình, là nhà hóng mát của vua. Đó là cái nhà cuối cùng tiếp giáp với bến
nước của sông Hương trong khu vực cột cờ. Đây cũng là nơi thường vang vọng những
tiếng hò quốc kêu đau thương sau ngày vua Duy Tân, nhóm Trần Cao Vân, Thái
Phiên, Phan Thanh Tài đứng lên mưu đồ cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng thất bại
vì nội phản để đến nỗi vua bị đày, tướng bị xử trảm tại An Hòa:
Trước bến Văn
Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông... Thuyền
ai thấp thoáng bên sông, nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Nghe Thùy giải
thích, ý nghĩ của những người trên đò như đang lãng đãng trôi về thời quá khứ.
Chị bạn người Nam chỉ tay về phía cột cờ sừng sững làm bối cảnh chính cho cả
vùng Phu Văn Lâu:
- Cột cờ nầy
hình như đã treo cờ vàng ba sọc đỏ từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi cờ đỏ
sao vàng của Việt Minh khi Trần Huy Liệu nhận ấn tín từ tay vua Bảo Đại thoái vị
trên lầu Ngọ Môn năm 1945. Không biết lần đầu tiên lá quốc kỳ được treo lên nơi
đây là loại cờ nào và trông giống ra sao?
Mọi cặp mắt lại hướng
về Thùy, viên thuyền trưởng kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ. Thùy trầm ngâm rồi
dè dặt lên tiếng:
- Tôi có
một ông đời sơ, nghe đâu là một trong những tác giả bình dân của bài vè lịch sử
nổi tiếng "Thất Thủ Kinh Đô", có kể lại rằng Cột Cờ Thành Nội xây cao
80 thước, ngang với đỉnh núi Ngự Bình. Quốc kỳ thời nhà Nguyễn là cờ ngũ hành,
thường được treo trong các dịp Tết, lễ lớn của đất nước và triều đình, kèm theo
các sắc cờ khánh hỷ đuôi nheo.
Đò lại tiếp tục di
chuyển về phía cầu Trường Tiền. Một nhịp cầu đã gãy trong biến cố Mậu Thân
nằm thương tích, lạnh lẽo dưới trăng như một vết chém ngang lưng đối với khách
ngã nón trông cầu và trông tội nghiệp như vết sẹo ân oán vô tình trên khuôn mặt
trái xoan nuột nà của cô nữ sinh Đồng Khánh.
Người bạn miền Nam
thắc mắc:
- Lúc nãy cô lái đò
có hò "cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, em qua không kịp tội lắm anh
ơi!... " làm cho người nghe có cảm giác cầu Trường Tiền dài mù mịt và sông
Hương cuồn cuộn sóng dữ. Nhưng thực tế chiếc cầu đã ngắn mà giòng sông lại hiền
hòa thế kia thì tại sao lại "qua không kịp" vậy kìa?
Người bạn thổi sáo
trả lời:
- Muốn hiểu Huế cần
phải biết cách "nói lẩy" của mấy o gái Huế. Ngày trước, sau khi cầu
Trường Tiền do Pháp dựng lên, Huế bị chia ra làm hai thế giới: Phía bên nầy
sông Hương là thế giới của người Việt Nam và phía bên kia là thế giới của
Tây. Người bình dân xứ Huế nhìn qua bên kia với những tên xa lạ như vùng
"Xạc-Măng-Rông"(Charfanjon), "Mô-Ranh" (Morin Frères),
"Trường Sài-Nhô" (Chaigneau Ecoles)... Vì vậy khi người tình đã
"qua cầu" Trường Tiền rồi thì kể như đã sang một vùng trời khác với
thế giới "tối rượu sâm-banh sáng sữa bò" xa lạ của Tây, Đầm... làm
sao cô gái mộc mạc chân chim theo cho kịp được.
Có thể nói mỗi
bước chèo khoan của sông Hương đều có man mác một dòng lịch sử, nên đò đã đến gần
khúc sông giữa cầu Gia Hội và Cồn Hến lúc nào mà khách đi dò vẫn còn miên man
trên những nhánh sông của quá khứ.
Theo hướng dẫn của
Thùy, thuyền tạm neo bên bờ sông Đào đổ ra sông Hương, gần cầu Gia Hội. Khi
Thùy lên tiếng mời mọi người sẵn sàng "đi ăn" thì ai cũng nghĩ đến một
tiệm ăn nào đó trên bờ. Thùy bước ra phía mũi đò và đưa tay ngoắc một một chiếc
xuồng gần đó, dặn dò to nhỏ với người duy nhất ngồi trên xuồng. Người lái xuồng
quay mũi đi lập tức, Anh bạn người Nam coi chừng đã đói bụng, nhắc:
- Còn chờ gì nữa,
thôi chúng ta đi ăn đi các anh chị.
Thùy cười:
-Chúng ta ăn ngay ở
đây chứ khỏi cần đi đâu xa.
Liền đó, ba bốn chiếc
xuồng nan đã tiến tới cặp bên đò khách. Xuồng nan là một loại thuyền câu nhỏ,
đan bằng tre, trét kín bằng dầu hắc hay dầu rái để nước khỏi rỉ vào. Xuồng chỉ
cần một người lái với hai tay bơi hai chiếc chèo nhỏ gọi là chầm. Xuồng di chuyển
thoăn thoắt và rất cơ động trên giòng sông nhỏ chằng chịt thuyền đò. Xuồng tạo
thành một mạng lưới thông tin, liên lạc, mua bán, trao đổi rất nhanh chóng và
tiện lợi trong thế giới thuyền chài trên sông Hương. Mỗi chiếc xuồng được trang
bị như một bếp nhỏ và chuyên trách một món ăn nào đó. Các chủ xuồng, hầu hết là
mấy o, mấy thím. Những món ăn đặc thù của Huế như bún bò, cơm hến, cháo lòng,
gà xé phay, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít, bánh cuốn, xôi thịt hon,
chè xanh đánh, chè nhãn, chè hột sen, chè thịt quay... đều có đầy dủ trong những
cửa hàng nổi tý hon nầy.
Mở màn, mấy
anh ăn gà xé phay uống với rượu nếp; mấy chị ăn bánh nậm tôm chấy và bánh
bèo thịt heo luộc. Một anh bạn thắc mắc sao không uống bia hay rượu tây mà lại
uống rượu nếp thì Thùy nêu ý kiến rằng, ngủ đò trên sông Hương thì ngon nhất là
uống rượu nếp vì rượu nếp "đằm" và "ngấm dai". Nếu uống bia
mà phải ngồi xếp bàn trên đò thì bụng sẽ "nê" và mắc “đi ngoài” liên
tục. Đò trăng, lại có thêm người đẹp mà phải đứng trên đò làm cái công việc ngủ
uẩn trần ai thì còn chi là hồn thơ của Hương Giang dạ khúc nữa. Nếu uống rượu mạnh
thì sương đêm và gió sông rất dễ làm cho khách chìm đắm và có khi ngủ quên
trong hơi men, nhìn mọi vật lờ đờ sương khói, còn đâu cái cảm giác dìu dặt,
ngây ngây để nằm ngửa nhìn trăng, nằm nghiêng nhớ... bến! Tiếp theo là món ăn
tùy thích của mỗi người và cuối cùng là bún bò Huế. Cái ngon của "những
nhà hàng nổi sông Hương" đến từ hình ảnh chập chờn của những ngọn đèn dầu
leo lắt, những bếp lửa mong manh, những bàn tay buông chầm cầm chèo thoăn thoắt,
những món ăn chuẩn bị cầu kỳ mà nhìn đơn giản, những chén dĩa nhỏ nhắn, đơn sơ
và đặc biệt là những món ăn thơm mùi "tiệm", nhưng cũng phảng
phất mùi khói nhẹ nhàng trên đội xuồng rần rật đánh thức sông Hương.
Sau bữa ăn, có dấu
hiệu bất thường nào đó đã gây nên một thoáng xôn xao trong đò. Hình như
"triệu bất tường" phát xuất từ cặp vợ chồng người Nam. Cuối cùng hình
như không còn đè nén được nữa, anh bạn người Nam bò sang phía tôi, ghé sát tai
tôi thì thầm báo động: "Bả muốn tiểu tiện! Đây có chỗ nào đi không?”. Tôi
ráng nín cười, kéo tay anh bạn ra phía đằng sau lái để hỏi người chủ đò về
phương tiện vệ sinh. Người chủ đò lật đật đem ra một cái lon sữa Guigoz, nói một
cách thật thà:
- Mời mấy
"khách quan" ngồi trên đò đi trong lon "gô" ni cũng đặng.
Anh bạn lật đật tới
đằng trước kéo bà xã ra đằng sau để giải tỏa bầu tâm sự. Tôi và người chủ
đò tạm lánh mặt tận đằng sau lái để cặp vợ chồng tự do chèo chống với nhau,
nhưng anh chồng lại băn khoăn tới báo hung tin:
- Cái lon
"gô" nó "kỳ" quá, bả đi không được.
Người chủ đò bèn đổi
chiến thuật:
- Thôi thì bồng
bà lên trên mạn đò để đi xuống sông mau hơn.
Anh bạn lại làm theo
lời chỉ bảo, nhưng được một lát lại vào báo cáo:
- Ngồi giữa lộ
thiên nó, nó... trống trải quá hà, bả chịu hổng đi được.
Tôi đã đoán là sự cố
coi bộ không êm xuôi vì cái cảnh "Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, trơ
cái hồng nhan với nước non" khó mà chịu nổi với một người phụ nữ mới lần đầu
đi ngủ đò. Tôi ngoắc đại một chiếc xuồng đang chèo chầm chậm gần đó và thuê chở
chị vợ anh bạn vào bờ mới có nhà vệ sinh. Xuồng cặp sát ngay mạn đò và tôi vào
đề ngay không cần uốn lưỡi một lần nào cả:
- Mời chị lên
ngay xuồng để vào bờ mới có nhà vệ sinh.
Khi chị bạn đã bước
xuống chiếc xuồng nhỏ chòng chành, anh chồng và tôi định xuống theo nhưng o lái
xuồng đã la ơi ới cản lại vì xuồng chở được tối đa là ba người. Cuối cùng tôi
phải đi theo vì quen thuộc địa phương hơn. Xuồng vừa lướt êm vài chục thước,
tôi bỗng nghe một tiếng rên nho nhỏ từ phía chị bạn miền Nam... và, tiếp theo
là tiếng nước chảy róc rách từ trên tấm chỏng tre xuống lòng xuồng. Cô lái xuồng
coi bộ hoảng hốt, nói với tôi bằng một giọng đặc sệt tiếng Huế vùng quê:
- Nì, eng nớ
coi tề. Cấy chi kiêu rỏn rỏn ngụy hung. “Tòng” miền bị lủng răng
hè? (Nè anh kia coi kìa. Cái gì kêu rỏng rỏng lạ lắm. Xuồng mình bị
thủng sao kìa?)
Cũng may là chị
bạn hoàn toàn không hiểu cô lái xuồng đang nói gì. Mặc cho cô lái xuồng phản đối
líu lo, tôi làm bộ trượt tay rồi vươn tay ra khoát mạnh nước lên xuồng cho mọi
người cùng ướt. Khi ba người đều bị ướt, nguyên nhân có thể hơi khác nhau nhưng
hậu quả vẫn là ướt, nghĩa là huề cả làng. Xuồng cặp bờ, chị bạn nói rất
nhỏ đủ tôi nghe:
- Thôi khỏi, cảm
ơn anh, tôi "xong" rồi...!
o0o
Phố đò sông Hương
trong những đêm mùa Hè, có trăng thường bắt đầu ngủ khoảng 3 giờ sáng. Trong những
ngày nóng bức nhất của Huế, khí hậu lý tưởng trên sông Hương là vào lúc nửa đêm
về sáng. Giờ đó có một ít sương loãng giác bạc bầu trời, pha với khói sóng và
gió núi bâng quơ sẽ làm cho khách ngủ lộ thiên trên đò có được cái cảm giác của
gió lụa về mơn man trên má, trên tóc, trên môi. Ngủ trên đò, khách chưa quen với
sóng nước lúc đầu sẽ có một cảm giác ngây ngây, êm đềm như say nắng. Đò neo nột
chỗ nhưng vẫn lắc lư dìu dặt và chòng chành nhẹ nhàng theo con sóng. Âm thanh
nước vỗ vào mạn thuyền, vào chân cầu, vào bờ kia bến nọ lúc hối hả, lúc buông
lơi như thì thầm gọi mời giấc ngủ. Vận tốc ảo do các đò lân cận chèo ngược, về
xuôi thường làm cho khách ngủ đò mơ hồ không biết mình trôi, nước trôi, đò
trôi, hay cả thế giới đang trôi bỏ mình ở lại. Giấc ngủ trên đò thường đến dễ,
thoải mái với hơi thở nhẹ và sâu căng phồng buồng phổi. Nếu có một chút trăn trở,
khách sẽ có dịp nằm nhìn trời cao và đen xanh thăm thẳm trên kia rồi vẽ ra những
kỷ niệm, những khuôn mặt khi ẩn khi hiện với trăng sao lay lắt xa xăm và mờ nhạt.
Nếu khách có chút máu văn nghệ vặt thì rất có thể thơ Hàn Mặc Tử sẽ hiện về hỏi
thăm, "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối
nay?". Hoặc buồn hơn một chút nữa sẽ nhớ thơ Đường của Trương Kế
"Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên. Giang phong ngư hỏa đối sầu miên... Qụa
kêu trăng lặn sương đêm. Đèn chài gió sóng cho thêm nỗi sầu..."
Ngủ đò mà ngủ ngon
là chưa đạt, vì ngủ ngon là đã gói trọn cả trái đất này trong tiếng ngáy pho
pho, mặc cho gối thắm, má hồng, môi son, mắt sóng rơi vào... "hư
vô". Ngủ đò là sống từng phút từng giây, từng vi ti của cảm giác để
một mai lỡ "thuyền có về Đại Lược, duyên có ngược Kim Long" thì vẫn
còn một chút gì để nhớ và để...thèm về một khuôn mặt khó quên, một giòng sông
lãng đãng và một xứ Huế trầm lặng nhưng lãng mạn và đa tình không nói hết.
Nằm trên đò, sẽ
nghe một ngày tàn của Huế lịm dần với tiếng rao hàng xa xôi và mất hút của chè
đậu xanh đậu ván, của bún bò, của phở. Rồi một ngày mới của Huế bắt đầu với tiếng
chuông Thiên Mụ gióng lên lúc 5 giờ sáng. Huế trầm lặng qúa nên trong những
ngày tốt trời tiếng chuông lan xa đến tận Văn Xá, Hương Cần, Chợ Nọ, Chợ Dinh.
Một ngày mới của khách ngủ đò thường bắt đầu với ánh mặt trời "dòm mặt".
Khách sẽ mĩm cười với nắng, với Huế và với chính mình khi chải tóc trong gương:
"Ngủ đò, một kỷ niệm khó quên mỗi lần nhớ Huế!".
Một đêm ngủ đò được
coi là "đạt" khi sáng hôm sau khách ngỡ ngàng với chính mình vì hình
như đêm qua mình và giòng sông đã tan loãng hòa làm một; mình đã coi những giá
trị bao năm gìn vàng giữ ngọc thành phù phiếm và bỗng thấy đò nước sông Hương
có một mày vẻ, một linh hồn riêng của nó. Rồi tự nhiên cảm thương chính mình,
thương giòng sông, thương cuộc đời và thương số phận long đong của khách giang
hồ và người kỹ nử.
Buổi chia tay trên
phi trường Phú Bài, anh bạn miền Nam phát biểu cảm tưởng:
- Chúng tôi thật
may mắn vào giờ chót lại được đi ngủ đò. Chuyến nầy về thăm Huế mà không được
đi ngủ đò thì chỉ mới biết Huế có một nửa. Từ nay tôi có thể lên lớp nói chuyện
với học trò về cái thú ngủ đò trên sông Hương như nói chuyện dong thuyền ngâm
thơ trên Hồ Tây, khỏi có băn khoăn hay ngại ngùng gì cả.
Tôi nheo mắt
nói riêng nho nhỏ với anh bạn:
-Thùy hẹn anh sang
năm về Huế đi "ngủ mặn" đó nghe.
Chị bạn vẫy
tay từ biệt vẫn không quên nhắn lại:
-Cảnh Huế đã đẹp
một cách thâm u mà người Huế lại quá thâm trầm. Cám ơn anh rất nhiều và sẽ nhớ
mãi "Tuyệt Anh Hội" trên xuồng "cấp cứu"...
o0o
Năm 1973, một năm
sau ngày "Đại Lộ Kinh Hoàng", tôi theo học sinh hồi cư trở lại Quảng
Trị. Để giúp tuổi trẻ lang thang bụi đời trên vùng đất hồi cư còn đau ê ẩm với
vết thương của chiến tranh nầy, tôi được mời vào Huế nghiên cứu và học hỏi kinh
nghiệm của các tổ chức tiền phong đang hoạt động ở đó trong giới gái giang hồ
và trẻ em hè phố, bụi đời. Nhờ vậy mà tôi được cái “hân hạnh trời đày” là ngủ
đò miễn phí, công khai, nhưng lại ngủ đò chay, không phải trên thuyền rồng say
duyên, thuyền tình nghiêng ngửa mà trên thuyền “thái giám” lặng lờ của trung
tâm xã hội Caritas trên sông Hương.
Tất cả ghe thuyền
trên sông Hương có khoảng từ hai đến ba nghìn chiếc. Con số co giãn vì một số
đò chợt đến chợt đi tùy mùa và tùy hoàn cảnh. Từng nhóm đò họp lại với nhau
thành một khu vực nào đó gọi là Vạn Đò. Vạn An Hội, là vạn lớn nhất trong những
năm 70, gồm các đò đậu hai bên bờ sông kéo dài từ cầu Gia Hội cho đến cầu Đông
Ba và rải rác tới Cửa Trài. Những cô gái Sông Hương lạc loài hương phấn hầu hết
nằm trong địa bàn của Vạn An Hội. Vạn Tân Bửu, Vạn Trường Độ, Vạn Lợi Thành kéo
dài từ Bến Xe Buýt Chợ Đông Ba lên tới Cầu Mới và lẻ tẻ đó đây lêntới mạn dưới
Kim Long. Các vạn đò trong vùng nầy chủ yếu là làm ăn bằng phương tiện đánh cá,
vận tải hay mua bán đổi chác hơn là rước khách. Ngoài ra còn có một vạn đò rất
cơ động và cũng đã đóng một vai trò rất sôi động trên sông Hương là Vạn Lanh
Canh. Tên "Lanh Canh" xuất phát từ tiếng gõ lanh canh của các tròng
đánh cá nhỏ lúc hành nghề. Nhưng sau nầy hầu hết đã chuyển nghề thành một mạng
lưới phục vụ rất nhộn nhịp khắp nơi trên sông Hương.
Huế là vùng đất của
suy tư và tình cảm, nhưng lại không có chỗ dung thân cho ngày trở về của những
đứa con hoang.
Đọc Kiều, ai cũng cảm
thương cho cuộc đời luân lạc, truân chuyên của một nàng Kiều tuyệt thế, tài
hoa. Đến Huế, bao nhiêu người đã tiếc cho một giòng sông Hương hiền hòa mà phải
cưu mang những đứa con bất hạnh.
Có một nhà thơ cổ vừa
lãng mạn, vừa trào phúng của Huế mà tôi rất hâm mộ, đó là cụ Thảo Am Nguyễn
Khoa Vi, nhưng nhiều người lại không thích hai câu thơ đối của cụ sáng tác đâu
vào khoảng năm 1947 mà dân Huế nhiều người thuộc. Người ta không thích bởi
nó quá tàn nhẫn và trần trụi, thiếu mất một một lớp khói sóng mong nanh của
sông Hương và lớp lá me bay che tiếng thở dài không hợp với phong thái lãng mạn,
nhẹ nhàng và trầm tư của Huế. Đó là hai câu:
Núi Ngự không cây chim đậu đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Một sớm mùa Xuân trước
khi Huyền Trân Công Chúa giã biệt sang Chiêm Quốc thì Huế vẫn là vùng Ô Châu Lạc
Địa và giòng sông Hương vẫn là giòng sông trinh nguyên của chim bói cá dưới nước,
chim sơn ca trên trời giữa hai bờ lau lách.
Rồi một ngày, Huế trở
thành Hoàng Triều Cương Thổ thì chim chóc lưa thưa vì sợ người săn đuổi, lau sậy
không còn đất mọc vì hai bên bờ sông Hương đã bắt đầu phân chia Kẻ Chài và Kẻ
Chợ. Kẻ Chài là tiền thân của những vạn đò mà hơn 500 sau sẽ thành mạng lưới
dân thủy diện trên sông Hương hôm nay.
Một thời, khách ngủ
đò trên sông Hương là hàng tao nhân mặc khách. Những chàng tư mã áo xanh và những
vương tôn công tử hào hoa trọng nghĩa khinh tài. Thuở đó, đò là phương tiện để
chở nhạc và thơ, đầy tiếng ca, tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng phách... chưa gợn một
chút u tình.
Rồi một thời tan tác
đổ. Chiến tranh, phân ly, nghèo đói đã đưa những kiếp người vào ngõ cụt:
"Bán thân nuôi miệng, bán tiếng nuôi con". Những đứa con xứ Huế
lỡ một lần làm điếm nhục gia phong là kể như chung thân biệt xứ.
Nếu Huế có quyền chọn
lựa những ước mơ thì ước mơ đầu tiên là đất nước sẽ giàu, những vùng quê thôi
nghèo đói, những cô gái sông Hương có được một cuộc đời, nếu không được
"êm đềm trướng rủ màn che" thì cũng đáng sống để trả sông Hương về lại
dáng xưa với tiếng đàn, tiếng phách. Sông Hương khó mà chịu nỗi những tiếng cười
vỡ vụn nhức buốt và những tiếng thở dài áo não đêm đêm trên những con đò!
o0o
Giòng sông Hương
cũng như một đời người chia thành nhiều khúc. Khúc thượng nguồn là tuổi trẻ
măng tơ và thanh thoát. Khúc Thiên Mụ Kim Long là tuổi thành niên đã bắt đầu thấp
thoáng ưu tư. Khúc Đông Ba Gia Hội là tuổi trưởng thành để vật lộn, tranh sống
với đời "mười hai bến nước, bến mô trong thì nhờ, bến mô dơ thì chịu".
Từ đó, sông Hương sẽ rẽ về hai ngã: Ngã Đò Cồn, Vỹ Dạ mang dáng dấp trầm
tư của con nhà quan về vườn qui ẩn. Ngã Bao Vinh, Ba Sình giống như tuổi
sắp già chán cảnh bon chen, nhưng vẫn còn duyên nợ với cuộc đời, ít ra là cũng
"phù thế giáo một vài câu thanh nghị". Và cuối cuộc đời, rồi cũng như
tất cả những nhánh sông Hương đều trôi về biển.
Ngủ đò trên sông
Hương là đang nằm trên giòng đời trôi chảy. Ngủ chay là tĩnh, ngủ mặn là động;
động tĩnh cũng chỉ là hai mặt của một trự tiền. Nằm ngủ đò trên sông Hương có
những lúc không biết đò trôi theo nước hay nước trôi theo đò. Trôi đi cũng có
nghĩa là chảy về. Về đâu? Về lại chính mình. Khi tâm mình không động thì ngủ
chay hay ngủ mặn, đò trôi hay nước trôi có nghĩa gì vì ta vẫn nằm đó. Nằm im
nghe sóng hay nghiêng ngửa với thuyền tình thì vẫn là ngủ đò trên sông Hương.
Khách viếng Huế vẫn thường có một tâm trạng chung là viếng Cố Đô, nghĩa là chân
bước đi dưới những hàng phượng đỏ và nằm trên sóng nước sông Hương đang trôi chảy
về xuôi mà hồn vẫn cứ rưng rưng với dĩ vãng. Khách cứ nhìn Huế như một thiên đường
đã mất nên ngủ đò như một kẻ lạc hồn, ít khi tỉnh thức để "chộ mình đang ở
bến mô". Ngủ đò như thế là có nợ mà không có duyên với Huế.
Có một người làm thơ
tại Sacramento với những vần thơ lục bát mượt mà, cổ kính và đẹp kiêu xa như
tên gọi một giai nhân thời dựng nước: Thục Nữ Văn Lang. Tôi đang loay hoay tìm
câu kết luận cho bài nầy thì Thục Nữ Văn Lang vừa tặng bài thơ Khúc Sầu Thiên Cổ.
Bài thơ mang âm hưởng buồn cổ độ của điệu hát Nam Ai, Nam Bình. Tiếng thơ nghe
ra cũng là "có nợ" với cố đô rồi đó, nhưng chưa biết sẽ có duyên hay
không:
Tình sầu vọng gởi cố đô
Sông soi cổ tháp- Thuyền lờ lững trôi.
Chiều tàn, mộ khúc à-ơi!
Não lòng lăng tẩm bên đồi nhớ vua.
Bốn ngàn năm của hồn xưa
Hương cau- Đền cũ- Lưa thưa nắng thề.
Ô Châu hề! Thuận Hoá hề!
Hoàng triều Nguyễn Thị đã về bến mô?
Ngàn đời còn đó Nam Ô
Khúc sầu thiên cổ: Điệu hò Nam Ai.
Một đêm trăng nào đó
với một con đò nhỏ trên sông Hương, trước khi ngủ đò, tôi sẽ đọc lại bài thơ nầy
để Huế nghe thử có duyên tới mô, Huế hỉ! Nhưng có lẽ trước khi gởi thơ
cho nước, tôi sẽ xin phép tác giả sửa lại một từ trong câu gần cuối của bài
thơ:
Ngàn đời còn đó con đò
Khúc sầu thiên cổ: Điệu hò Nam Ai.
Xin được thay
"Nam Ô" bằng "con đò" vì Nam Ô xa quá, cách Huế cả một cái
đèo Hải Vân trùng trùng mây bay sương phủ. Lại nữa, đò Nam Ô là đò nước mặn
"ngủ đò nước mặn sợ hà ăn... chân". Có ngủ đò nước ngọt sông Hương mới
biết thương sông Hương. Và, thương những gót son, môi thắm, má hồng... của Huế
đang cố dấu niềm u ẩn tàn phai sau nụ cười vỡ vụn và ánh mắt phong ba vì sông
nước Hương Giang cứ trôi chảy hoài ra biển, quê hương thì biền biệt, răng lại
quên mất nơi mô là chốn cũ quay về.
Trần Kiêm Đoàn
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.