Vào thời nhà Minh, có một người tên là Du Đô, tự Lương Thần, người ở vùng Giang Tây, sinh vào năm Gia Tĩnh thứ nhất, đỗ tiến sĩ vào năm Vạn Lịch thứ năm. Cảnh ngộ nửa đời trước và nửa đời sau của ông khác nhau một trời một vực. Trước 47 tuổi, ông than thở vận mệnh của mình nhiều thăng trầm, tự xét thấy bản thân không phạm tội gì to lớn, vì sao lại bị Trời phạt? Mãi cho đến đêm giao thừa năm nọ, Táo Quân hiện thân giải đáp toàn bộ những mê mờ của ông, khiến cho ông bỗng nhiên tỉnh ngộ…
Du Đô là người có tài và học vấn sâu rộng, 18 tuổi vào Hương học, thành tích học tập rất tốt, thường đỗ thứ hạng cao trong các kỳ thi. Nhà của Du Đô rất nghèo, đến tuổi trung niên ông phải đi dạy học để kiếm sống. Ông cùng với hơn mười người bạn đồng môn, cùng nhau thành lập Văn Xương Xã, từng lập ra quy ước “tích tự, phóng sinh, giới dâm, giới sát, giới khẩu”, và thực hành tuân theo quy ước này nhiều năm. Trong thời gian này, ông đã tham gia bảy lần thi Hương, nhưng đều không đỗ. Vợ chồng ông sinh được năm người con trai, nhưng bốn người con đều mắc bệnh và chết yểu. Chỉ còn lại người con trai thứ ba, cậu vốn rất thông minh, dưới bàn chân trái có hai nốt ruồi, hai vợ chồng ông rất yêu thương con và xem như trân bảo. Thế nhưng lúc lên 6 tuổi, người con trai thứ ba này trong lúc chơi đùa ở trong thôn, lại bị mất tích, chẳng biết đã đi về đâu. Vợ chồng ông còn có bốn người con gái, nhưng cũng chỉ có một cô còn sống. Vợ của ông vì vậy mà đau buồn khóc lóc chết đi sống lại, hai mắt đều mù. Du Đô quanh năm buồn chán, cuộc sống càng thêm túng quẫn.
Vào đêm giao thừa năm ông 47 tuổi, Du Đô và người vợ mù cùng người con gái thức để đón giao thừa. Nhà chỉ có bốn bức tường tiêu điều vắng vẻ, ba người ngồi đó với vẻ thê lương.
Lúc này đột nhiên vang lên tiếng gõ cửa. Du Đô cầm nến đi mở cửa, liền nhìn thấy một người mặc quần áo và đội khăn màu đen, râu tóc hơi bạc đang đi tới.
Người kia chắp tay vái chào rồi ngồi xuống, nói: “Tiểu đệ họ Trương, từ phương xa đến đây, nghe cả nhà huynh ưu sầu than thở, nên đến để an ủi.”
Du Đô rất cung kính với người họ Trương kỳ lạ này, ông nói: “Tôi một đời đọc sách tích thiện, đến giờ công danh chưa đạt, thê tử còn bị mù, cả nhà áo cơm không đủ. Hơn nữa mấy năm nay vẫn luôn đốt sớ dâng Táo Quân, nhờ ngài ấy chuyển giúp tâm ý của tôi lên Thiên Đình.”
Người khách họ Trương nói: “Tôi đã biết việc nhà huynh từ lâu rồi! Chấp niệm của huynh quá nặng, chuyên theo đuổi hư danh. Trang sớ tràn đầy những lời oán trách, khinh nhờn Thần linh, nếu trình lên Thiên Đế, chỉ sợ trừng phạt không chỉ như vậy thôi đâu.”
Du Đô nghe vậy thì kinh hãi, nói: “Tôi nghe nói trong cõi U Minh, sám hối hành thiện nhất định có thể biểu đạt ý nguyện lên tới Thiên Đình. Tôi cùng với những người bạn đồng môn trong Văn Xương Xã, từng lập thề làm việc thiện, tuân theo điều lệ quy tắc đã được nhiều năm như vậy, chẳng lẽ chỉ vì hư danh hay sao?”
“Huynh hãy nghe nhé, nó về ‘tích tự’ (quý tiếc chữ), học trò và các bạn đồng môn của huynh dùng nhiều sách cũ dán phòng, gói đồ, lau bàn rồi đốt chúng đi. Đây được coi là quý chữ sao? Mỗi ngày huynh nhìn thấy việc này, nhưng không hề nói một câu khuyên can, chỉ giống như là vài tờ giấy lộn nhặt được ở trên đường, liền đem về nhà đốt đi, như vậy thì có ích gì?
Lại nói đến phóng sinh, huynh cũng ăn tôm cua, kỳ thực trong tâm chưa thực sự động niệm từ bi.
Còn nói về tu khẩu. Lời lẽ phản ứng của huynh nhạy bén, dẫn chứng khéo léo, thường khiến cho người nghe bái phục. Khi cùng với bạn bè đàm luận say sưa hả hê, tùy tiện cười chê, lại không tự giới cấm. Miệng lưỡi sắc bén làm tổn thương người khác, chọc giận quỷ thần, tích tụ ác nghiệp, không cần biết là nhiều hay ít, như vậy có thể nói huynh là giản dị hiền hậu sao?
Còn nữa, khi huynh nhìn thấy phụ nữ đẹp, thế nào cũng không bỏ qua, mắt nhìn chằm chằm không chớp, lập tức tâm động tinh thần quấy nhiễu! Huynh nói bản thân cả đời không tà niệm, không phạm sắc giới, há thực sự có thể thản nhiên không thẹn với Trời Đất, quỷ Thần sao? Những điều này cũng đều là quy tắc huynh phát thề nỗ lực thực hiện, tôn sùng, mà lại còn như thế ư.
Mỗi năm huynh đều đốt sớ trình lên Thiên Đình, Ngọc Hoàng phái sứ giả Nhật Du xuống xem xét kiểm tra việc thiện ác của huynh, kết quả mấy năm qua không việc thiện nào đáng được ghi nhận. Nhưng thấy bên trong huynh, lòng tràn đầy những niệm đầu: tham lam, dâm ác, tật đố, hẹp hòi, truy cầu thi ân và phục thù, còn có niệm tự cho là đúng, coi thường người khác, trông chờ vào tương lai … Đủ các loại ác niệm này, tích lũy lại đã nhiều, thì phải đưa tới Trời trừng phạt, lúc đó huynh trốn họa cũng không kịp, còn có thể chờ mong phúc thọ ban xuống sao?”
Du Đô kinh ngạc sợ hãi, quỳ xuống đất rơi nước mắt cầu xin rằng: “Ngài có thể thông hiểu việc của U giới, nhất định là một vị Thần tôn quý. Thành tâm cầu ngài hãy rủ lòng cứu giúp kẻ ngu dốt này!”
Trương quân nói: “Huynh đọc sách hiểu lý lẽ, cũng biết yêu thích việc thiện làm niềm vui trong cuộc sống. Nhưng nghe một lời nói thiện, gặp một việc thiện, ngay lúc đó thì lại vui mừng kích động, thuyền qua nước không lưu dấu vết. Đây là do gốc rễ niềm tin của huynh không sâu, sự kiên trì không bền gây ra, cho nên cả một đời nói lời thiện làm việc thiện đều là qua loa cho có lệ, không có một việc thiện nào là chân thành cả. Để mặc cho những ý niệm xấu lan tràn, nổi lên quấn lấy, giống như bụi gai mọc khắp nơi trên mặt đất, sao có thể mong đợi mùa màng bội thu đây?
Từ hôm nay trở đi, hễ là có những loại tạp niệm như tham, dâm, vọng tưởng … thì trước tiên dồn sức bài trừ hết thảy, thu dọn sạch sẽ. Nếu có khả năng làm việc thiện, không cần báo đáp, không cầu danh, bất luận là việc to, nhỏ hay khó, dễ, đều phải tận lực đi làm. Thứ nhất phải có tâm nhẫn nại, thứ hai là phải có lòng kiên trì, nhất thiết không thể để bản thân an dật sa ngã, không thể tự lừa dối mình. Nếu năng lực không thể làm được, cũng phải cần cù chăm chỉ, để cho thiện ý này được viên mãn. Kiên trì bền bỉ, kết quả sẽ tự có.”
Cuối cùng vị khách họ Trương nói với Du Đô rằng: “Huynh tôn kính ta, vô cùng thành kính và thuần khiết, cho nên ta mới đặc biệt tới đây để báo đáp huynh. Hãy mau nỗ lực tự kiềm chế bản thân, có thể thuận theo Thiên ý, sẽ đạt được sự chiếu cố.”
Ngày hôm sau, chính là ngày mùng 1 Tết Nguyên Đán, Du Đô khấn với Trời Đất, thề sẽ sửa đổi những điều sai trái trước đây. Nhưng trừ bỏ tạp niệm cũng không hề dễ dàng.
Ngày đầu tiên, tạp niệm có thừa, vẫn như cũ chìm nổi trong nghi tâm và sức ỳ của bản thân. Thế là ông đi khấu đầu trước tượng Quán Âm Đại Sĩ được đặt trong phòng, khấu đầu cho đến khi chảy cả máu, phát thề cần phải có thiện niệm chân thành và thuần khiết, thiện lực tinh tấn, nếu bản thân có chút buông lơi, thì sẽ rớt xuống địa ngục mãi mãi. Mỗi sáng sớm, ông thành kính tụng Thánh hiệu một trăm lần, từ đó mỗi lời nói hành động, mỗi một niệm mỗi thời khắc, đều giống như có Quỷ Thần ở bên cạnh, một tấm chân tình không dám làm càn.
Phàm là hết thảy điều gì có lợi đối với người khác, cho dù là việc lớn hay nhỏ, bản thân có bận rộn hay nhàn rỗi, người khác có biết được hay không, khả năng có thể làm được bao nhiêu thì Du Đô đều vui vẻ đi làm, hoàn thành sự việc rồi sau đó mới dừng. Ông khiêm tốn nhẫn nhục, tùy duyên mà làm, gieo âm đức sâu rộng. Ngoài ra, Du Đô còn khuyên người khác về đạo lý nhân quả báo ứng, cuối cùng ông có thể đạt đến cảnh giới khi động thì vạn niệm thiện đi theo, khi tĩnh thì một niệm cũng không nghĩ tới.
Cứ như thế qua 3 năm sau, đến năm Vạn Lịch thứ 2, cuộc đời của ông cũng đã đến 50 tuổi. Tể tướng Trương Cư Chính muốn chọn thầy dạy cho con, mọi người đều tiến cử Du Đô. Du Đô được mời về kinh đô, dẫn theo cả nhà cùng đi. Trương công kính trọng phẩm đức của ông, đã đặc cách cho ông vào học tập ở Quốc học. Năm Vạn Lịch thứ 5, Du Đô đỗ Tiến sĩ.
Ngày đó, Du Đô đến bái yết Nội giám Dương công, Dương công gọi năm người con nuôi ra chào khách. Trong số năm người con nuôi đó, Du Đô đặc biệt cảm thấy rất thân thiết và quen thuộc đối với một người con trai 16 tuổi, bèn hỏi quê quán của cậu. Cậu bé thưa: “Cháu là người vùng Giang Hữu (Giang Tây), lúc nhỏ lên nhầm thuyền chở lương thực, chỉ nhớ lờ mờ họ và quê quán của mình.” Du Đô cảm thấy kỳ lạ, bảo cậu cởi giày ở chân trái ra, quả nhiên dưới bàn chân trái của cậu có hai nốt ruồi hiện lên rõ ràng trước mắt.
Du Đô reo to: “Là con của tôi đây mà!” Nội giám Dương công cũng cảm thấy kinh ngạc, lập tức đưa cậu bé này đi theo Du Đô trở về nhà. Du Đô đem chuyện kể lại với vợ mình, bà ôm lấy con trai khóc lớn, huyết lệ rơi như mưa. Cậu con trai cũng khóc lớn một hồi, nâng gương mặt mẹ lên rồi liếm vào hai mắt đã mù. Kỳ tích đã xuất hiện, mắt của người mẹ liền sáng trở lại rồi! Du Đô vui buồn lẫn lộn, thế là từ quan, mang theo cả nhà trở về quê hương. Tể tướng Trương Cư Chính tán thưởng đức hạnh của Du Đô, đã tặng ông một phần hậu lễ. Sau khi Du Đô trở về quê hương, càng dốc sức làm việc thiện. Con trai ông cưới vợ, sinh được bốn người con trai, mỗi người đều kế thừa dòng dõi thư hương của cha ông.
Du Đô đã tự mình viết lại câu chuyện gặp được Táo Quân và quá trình nỗ lực thực hiện sửa chữa sai lầm của mình thành một cuốn sách, dùng để giáo dục và khuyên răn con cháu. Ông sống khỏe mạnh và hưởng thọ 88 tuổi. Về sau, La Trình, người đồng hương hậu bối của ông đã ghi chép lại câu chuyện có thực này. Trong đó kể lại quá trình nỗ lực sửa chữa sai lầm chuyển thiện, chân thành cảm ứng Thần linh của Du Đô.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.