Thirteen
Lê Văn Tài, hiện đang sống
tại Úc, vừa là họa sĩ vừa là thi sĩ. Là họa sĩ, anh đã có hàng chục cuộc triển
lãm cá nhân ở Việt “Hãy tìm đến với Lê Văn Tài, nhà thơ kiêm hoạ sĩ Úc gốc Việt. Cũng như tất cả những tác phẩm nghệ thuật sáng giá, tranh và thơ của ông sẽ làm thay đổi cách nhìn và cách đọc của bạn. Lê Văn Tài là một con người vùng vẫy giữa hai bờ, đứng chênh vênh giữa hình tượng và văn bản, giữa bầu trời và mặt đất, để mang màu đen và màu trắng vào nhau. Ông viết và vẽ những hình ảnh đẹp rợn người.
Nhà
thơ Lê Văn Tài.
Trong thơ của ông, ông phát
ngôn như một sinh vật lạ lùng hiện ra trùng điệp trên những tấm bố vẽ của ông,
đó là “con chim di cư”. Ông gieo những hạt mầm từ Việt Nam lên lãnh
thổ của chúng ta. Ngôn ngữ của ông tạo nên một sự giao thoa giữa hai quê hương
khi ông mở một lộ trình giữa tiếng Anh và tiếng Việt.
Đây là lối hành văn chín muồi và đầy trực cảm của một nghệ sĩ đã bám chặt vào nghiệp viết. Ngôn từ và hình ảnh, ngôn từ và động thái, không lúc nào ngừng di chuyển. Những bài thơ cụ thể vượt ra khỏi thể loại của chúng bởi vì những hình thái mà chúng tạo ra không chỉ đứng yên một chỗ mà lại khiến cho ngôn ngữ chuyển động, xoay mòng.” (2) (Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn)
Từ năm 1998, Lê Văn Tài làm rất nhiều thơ tiếng Việt, chủ yếu đăng trên tạp chí Việt (1998-2001) và tờ báo mạng Tiền Vệ. Trong số cả mấy trăm bài thơ ấy, đáng chú ý nhất là loại thơ cụ thể (concrete poetry). Trong thơ cụ thể của Lê Văn Tài, một trong những bài tôi thích nhất là bài có nhan đề “Những tác phẩm tiêu biểu Đại Cồ Việt từ truyền thống đến hậu Cộng sản” (Triển lãm tại World Trade Centre,New York ,
2009) dưới đây:
Đây là lối hành văn chín muồi và đầy trực cảm của một nghệ sĩ đã bám chặt vào nghiệp viết. Ngôn từ và hình ảnh, ngôn từ và động thái, không lúc nào ngừng di chuyển. Những bài thơ cụ thể vượt ra khỏi thể loại của chúng bởi vì những hình thái mà chúng tạo ra không chỉ đứng yên một chỗ mà lại khiến cho ngôn ngữ chuyển động, xoay mòng.” (2) (Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn)
Từ năm 1998, Lê Văn Tài làm rất nhiều thơ tiếng Việt, chủ yếu đăng trên tạp chí Việt (1998-2001) và tờ báo mạng Tiền Vệ. Trong số cả mấy trăm bài thơ ấy, đáng chú ý nhất là loại thơ cụ thể (concrete poetry). Trong thơ cụ thể của Lê Văn Tài, một trong những bài tôi thích nhất là bài có nhan đề “Những tác phẩm tiêu biểu Đại Cồ Việt từ truyền thống đến hậu Cộng sản” (Triển lãm tại World Trade Centre,
Bird
carrying an egg on her hand
Moonfall
Theo
tôi, bài thơ trên là một bài thơ độc đáo và sâu sắc.
Viết vậy, tôi đoán một số độc giả sẽ ngạc nhiên: Đó là thơ ư?
Vâng, đó là thơ. Một loại thơ cụ thể.
Xuất hiện, với tư cách một phong trào vào giữa thập niên 1950, thoạt đầu ở Brazil với nhóm Noigandres, sau, lan rộng hầu như khắp nơi trên thế giới, thơ cụ thể, thật ra, đã có mầm mống từ rất lâu trong lịch sử văn học các nước (ví dụ, gần chúng ta nhất, ở Hy Lạp và Trung Hoa ngày xưa, nhiều người viết thơ dưới hình thức một bức họa). Đặc điểm nổi bật nhất của thơ cụ thể là vai trò của hình ảnh: Hình ảnh không chỉ có chức năng minh họa, nhằm làm “đẹp” bài thơ (theo kiểu thư pháp) mà còn là một yếu tố mang nghĩa. Chính vì thế, nhiều lúc người ta gọi thơ cụ thể là thơ tạo hình (visual poetry).
Viết vậy, tôi đoán một số độc giả sẽ ngạc nhiên: Đó là thơ ư?
Vâng, đó là thơ. Một loại thơ cụ thể.
Xuất hiện, với tư cách một phong trào vào giữa thập niên 1950, thoạt đầu ở Brazil với nhóm Noigandres, sau, lan rộng hầu như khắp nơi trên thế giới, thơ cụ thể, thật ra, đã có mầm mống từ rất lâu trong lịch sử văn học các nước (ví dụ, gần chúng ta nhất, ở Hy Lạp và Trung Hoa ngày xưa, nhiều người viết thơ dưới hình thức một bức họa). Đặc điểm nổi bật nhất của thơ cụ thể là vai trò của hình ảnh: Hình ảnh không chỉ có chức năng minh họa, nhằm làm “đẹp” bài thơ (theo kiểu thư pháp) mà còn là một yếu tố mang nghĩa. Chính vì thế, nhiều lúc người ta gọi thơ cụ thể là thơ tạo hình (visual poetry).
Trong văn hoá thị giác, thơ không phải chỉ được làm bằng chữ mà còn bằng nhiều loại ký hiệu khác, kể cả hình ảnh, hơn nữa, còn bằng các khoảng trống giữa các chữ trên trang giấy. Các khoảng trống ấy thực chất là sự tái hiện các khoảng im lặng trong ngôn ngữ nói. Trong thơ lại cần nhiều im lặng. Hình ảnh, các ký hiệu phi từ vựng và các khoảng trống ấy làm cho thơ tạo hình có ưu thế hơn thơ truyền thống ở chỗ: nó có khả năng diễn đạt những ý niệm trừu tượng một cách trực tiếp.
Thiên về ý niệm, thơ tạo hình nặng về nhận thức hơn cảm xúc; và vì nặng về nhận thức, thơ tạo hình đòi hỏi người đọc phải tham gia vào việc giải mã một cách tích cực hơn, nghĩa là, nói cách khác, phải trở thành một đồng-tác giả. Trong bản Tuyên ngôn của nhóm, các nhà Vị lai chủ nghĩa, tuyên bố: “Chúng ta sẽ đặt người xem vào trung tâm của bức tranh”. (3) Câu ấy không những được áp dụng cho hội hoạ mà còn cả cho thơ.
Tristan Tzara của Pháp
Cho đến nay, trong giới cầm bút Việt Nam , chỉ có hai người làm thơ tạo
hình nhiều và hay: Dương Tường và Lê Văn Tài. Dương Tường thì có tập Đàn (thơ
ngoài lời) gồm trên 20 bài do nhà xuất bản Trẻ ấn hành tại Hà Nội năm
2003. Lê Văn Tài sáng tác nhiều hơn hẳn. Tập Empty Arms Surrounded by Warm
Breath (1987) của anh có 76 bài thơ, trong đó có 19 bài là thơ cụ thể; tập Waiting
the Waterfall Falls (1997) có 130 bài thơ, trong đó có 56 bài là thơ cụ
thể. Đó là thơ bằng tiếng Anh.
Bằng tiếng Việt, trên tạp chí Việt và,
đặc biệt, trên Tiền Vệ, (6) anh có cả trăm bài thơ tạo hình, từ cụ thể đến
hình hoạ và digital. Thơ tạo hình của Lê Văn Tài không những đẹp (về hình ảnh
và màu sắc) và hay (về ngôn ngữ) mà còn sâu sắc (về ý niệm). Thơ tạo hình của
anh được một số những tên tuổi thuộc loại có uy tín nhất trong văn học Úc khen
ngợi; (7) riêng trong văn học Việt Nam, theo tôi, cho đến nay, anh là nhà thơ
thành công và tiêu biểu nhất trong thể loại này.
Liên quan đến bài thơ “Những tác phẩm tiêu biểu Đại Cồ Việt từ truyền thống đến hậu Cộng sản” (Triển lãm tại World Trade Centre, New York, 2009) ở trên có nhiều điểm có thể phân tích, tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ xin tập trung vào một khía cạnh nhỏ với câu hỏi: Trong cuộc triển lãm quốc tế ấy, người ta bán gì?
Câu trả lời: Bán đủ thứ.
Bán từ Cam Ranh đến Hạ Long, Hội An, Hà Nội; bán từ Nhà thờ Đức Bà đến chùa Một Cột và Đền Hùng, từ phụ nữ đến nghĩa trang Văn Điển và Kiều Nguyễn Du. Bán tất tần tật. Trong đó có ba thứ đã bán được rồi: Hoàng Sa (1974), biên giới Việt Hoa (1999) và Bắc Bộ Phủ (1990). (8)
Liên quan đến bài thơ “Những tác phẩm tiêu biểu Đại Cồ Việt từ truyền thống đến hậu Cộng sản” (Triển lãm tại World Trade Centre, New York, 2009) ở trên có nhiều điểm có thể phân tích, tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ xin tập trung vào một khía cạnh nhỏ với câu hỏi: Trong cuộc triển lãm quốc tế ấy, người ta bán gì?
Câu trả lời: Bán đủ thứ.
Bán từ Cam Ranh đến Hạ Long, Hội An, Hà Nội; bán từ Nhà thờ Đức Bà đến chùa Một Cột và Đền Hùng, từ phụ nữ đến nghĩa trang Văn Điển và Kiều Nguyễn Du. Bán tất tần tật. Trong đó có ba thứ đã bán được rồi: Hoàng Sa (1974), biên giới Việt Hoa (1999) và Bắc Bộ Phủ (1990). (8)
Tại sao?
Vì đó là huyền thoại.
Ở đây, có hai khía cạnh cần phân tích.
Thứ nhất, về bản chất, huyền thoại chỉ là chuyện kể, hay nói theo Roland Barthes, một “hệ thống giao tiếp” hay một thông điệp, tự nó, bao giờ cũng bắt rễ từ lịch sử, nhưng nó lại có chức năng biến lịch sử thành tự nhiên đồng thời biến ý nghĩa thành hình thức, mà hình thức thì chỉ có thể được đánh giá như một sự ký hiệu hoá (signification) chứ không phải như một sự diễn tả (expression), do đó, nó không có tính hiện thực hay phi hiện thực: (9) “chức năng của huyền thoại là hư hoá hiện thực, là làm cho hiện thực thành trống rỗng.” (10)
Thứ hai, về cái dụng, ở đâu người ta cũng cần huyền thoại. Trong phạm vi nhân loại, “huyền thoại góp phần tạo nên thế giới”; (11) trong phạm vi từng quốc gia, huyền thoại là yếu tố chính tạo nên những “cộng đồng tưởng tượng”, nói theo chữ của Benedict Anderson, để nối kết mọi người lại với nhau thành dân tộc (như ở Việt Nam, chẳng hạn, mọi người đều là con Rồng cháu Tiên). Những người ở thế yếu lại càng cần huyền thoại: Không phải ngẫu nhiên mà mặc dù huyền thoại Rồng Tiên đã xuất hiện từ lâu nhưng lại được nhắc nhở nhiều nhất khi Việt Nam bị Pháp đô hộ, trước hết, bởi các chí sĩ cách mạng, những người muốn đề cao lòng tự hào dân tộc, đoàn kết dân chúng và ngăn chận nguy cơ bị đồng hoá.
Những kẻ gian manh trong chính trị lại càng cần huyền thoại: Đó là những cái vốn – có khi là vốn duy nhất - để chúng làm ăn; với chúng, mất huyền thoại là mất tất cả.
***
Chú thích:
In
ở bìa sau cuốn Waiting the Waterfall Falls của Lê Văn Tài do Victoria
University xuất bản tại Melbourne năm 1997.
Mark
Stevenson, “Le Van Tai and the Living Page: Review of Waiting the Waterfall Falls ”, The Age, ngày 15.3.1997.
Bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc-Tuấn.
Dẫn
lại từ Willard Bohn (1986), The Aesthetics of Visual Poetry, 1914-1928,
Chicago: The University of Chicago Press, tr. 28.
Xem,
chẳng hạn, Willard Bohn (1986), The Aesthetics of Visual Poetry, 1914-1928,
Chicago: The University of Chicago Press; Willard Bohn (2011), Reading
Visual Poetry, Madison: Fairleigh Dickinson University Press; Johanna Drucker
(1994), The Visible Word, Experimental Typography and Modern Art,
1909-1923, Chicago: The University of Chicago Press.
Phạm
Hiếu, “Nhan sắc của bài thơ cụ thể”, Văn số 47 (5/1986), tr. 17-21.
http://tienve.org
Nhà
thơ Robert Harris, phụ tá chủ biên trang thơ của tạp chí Overland ở Melbourne cho một số bài
thơ cụ thể của Lê Văn Tài là những bài thơ cụ thể đẹp nhất mà ông từng được xem
trong nhiều năm. (In trong tậpEmpty Arms Surrounded by Warm Breath của Lê
Văn Tài, 1987, tr. 153.)
Năm
1990 này có lẽ là năm có cuộc hội nghị bí mật ở Thành Đô giữa giới lãnh đạo
Việt Nam
và Trung Quốc?
Roland
Barthes (1981), Mythologies (Annette Lavers dịch), London :
Granada , rải
rác ở các trang 109, 110, 129, 131, 136 và 137.
Như
trên, tr. 143. Nguyên văn: “The function of myth is to empty reality.”
Như trên, tr. 156. Nguyên văn: “mythology is certain to participate in
the making of the world.’Nguyễn Hưng Quốc
Những bí ẩn bên trong xác ướp HCM? |
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.